Trái tim của Jama, tuy nhiên, đã chẳng bao giờ trở nên sắt đá trước
Berkeley được cả. Jama gắn bó cùng Berkeley một thời gian dài, và anh
thường nhắc tới cậu. Có bận Berkeley thuật lại việc Jama khăng khăng
mình đúng khiến anh mất bình tĩnh, đánh cậu gia nhân Somali một cái.
“Nhưng cô bạn chí thiết biết sao không,” Berkeley nói, “tức thì tôi phải
nhận một cú thoi vào giữa mặt.”
“Sau đó sự thể ra sao?” Tôi hỏi.
“À, rốt cục êm thấm cả,” Berkeley bình thản đáp. Lát sau anh nói thêm:
“Cũng chẳng ghê gớm gì. Nó kém tôi cả hai chục tuổi ý mà.”
Vụ việc chẳng để lại chút dư âm nào trong thái độ của cả người chủ lẫn đầy
tớ. Jama có lối cư xử lặng lẽ, mang hơi hướng kẻ cả trước Berkeley, giống
cung cách hầu hết gia nhân Somali dành cho chủ của họ. Sau cái chết của
Berkeley, Jama không muốn ở lại nước này, cậu hồi hương về Somali.
Berkeley có một tình yêu lớn, chẳng bao giờ thỏa với Biển. Một giấc mơ ưa
thích của anh là hai chúng tôi - khi kiếm được tiền - sẽ sắm chiếc thương
thuyền một buồm đi buôn tới Lamu, Mombasa và Zanzibar. Chúng tôi đã
vạch ra kế hoạch đầu đuôi, dự kiến cả đội ngũ thuyền viên nữa, có điều
chẳng bao giờ kiếm nổi ra tiền.
Mỗi khi mệt mỏi hay đau ốm, Berkeley lại quay về với các hoài bão về
Biển. Rồi anh đau khổ bởi sự ngu ngốc của chính mình, khi đã tiêu tốn một
phần đời để sống không phải trên nước mặn, và tự trách bằng những lời lẽ
nặng nề. Một dịp tôi sửa soạn đi châu Âu, lúc Berkeley đang trong tâm
trạng như vậy, và nhằm khiến bạn khuây khoa, tôi định bụng cầm về hai
cây đèn bão, loại dùng treo ở mạn phải và mạn trái tàu, đem treo lên cạnh
cửa nhà, và mang chuyện này chia sẻ cùng anh.
“Sẽ đẹp đây,” anh bảo. “Ngôi nhà sẽ giống một con tàu. Nhưng phải là loại
đi biển rồi ấy nhé.”
Ở Copenhagen, trong cửa hiệu bán vật dụng dành cho thủy thủ nằm bên bờ
một dòng kênh lâu đời, tôi đã sắm được một cặp đèn lồng cũ, to nặng, từng