người đã vào miền Nam kể từ tháng Giêng 1961"(
1
), với hàm ý mọi lời báo
động về Lào chẳng khác gì một cơn bão trong ấm pha trà mà thôi.
Dường như Jorden đã bỏ qua các ước tính tình báo của MACV rằng 35.000
người đã trở vào Nam, tỉ lệ xâm nhập lớn hơn 5 lần so với tỉ lệ nêu trong
báo cáo của Jorden gửi Harriman. Bản "Nghiên cứu thâm nhập" công bố
mùa thu 1964 kết luận "tổng số có đến 45.000 kể từ 1959 đến nay”(
Theo chỉ thị của Harriman, một bản thường trình tương tự như của Jorden
được soạn thảo, bởi một trợ lý khác, William Sulivan, ngày 31-12. Mục
đích cũng tương tự: vô hiệu hoá những người đang làm ầm ỹ về Lào. Cũng
như Jorden, Sulivan tìm cách dội nước lạnh vào vấn đề quân đội miền Bắc
xâm nhập vào Nam.
Harriman được gọi là "Cá sấu" bởi vì ông là người đấu tranh nội bộ lạnh
lùng. Thực ra Harriman mới chỉ đánh tiếng, nếu có việc gì đó dính dáng đến
Harriman, thì đó là MACV không được vi phạm Hiệp định về Lào của ông.
Theo nội dung kế hoạch Switchback, nhiệm vụ hoạt động qua giới tuyến ở
Lào được chuyển cho quân đội(
). Tuy nhiên, tại thời điểm đó người ta
còn chưa biết giao cho ai trong MACV thực hiện nhiệm vụ này.
Tháng 1-1964, Westmoreland nhận được một cú sốc từ Washington. MACV
không được tiếp tục các hoạt động ngầm của CIA chống lại đường Hồ Chí
Minh do "không đạt được sự nhất trí về khái niệm hoạt động và những hạn
chế cần thiết để kiểm soát hoạt động đó vì Hiệp định Giơnevơ 1962 cấm
đưa quân đội nước ngoài vào Lào". Vì quy định này, không một nhân viên
Mỹ nào "được phép đi kèm các hoạt động ngầm do Nam Việt Nam thực
hiện ở Lào"(
1
). Harriman là kiến trúc sư của chỉ thị này. Ông đang cố gắng
để đảm bảo "sự cân bằng mong manh" ở Lào được giữ nguyên vẹn.
Đầu 1964, báo cáo về hoạt động của miền Bắc tại Lào nhận được sự chú ý ở
cấp cao tại Washington. Tại một cuộc họp tháng 4 của Hội đồng an ninh