hạn ngăn cản việc khai thác tối đa tiềm năng trước đây"(
). Bản báo cáo
kết luận tỉ lệ thương vong cao hơn là giá phải trả để có được sự phát triển.
Các toán thám báo thực hiện 187 điệp vụ. Việc xác định mục tiêu cho
không kích vẫn là nhiệm vụ chủ yếu của OP35. Ngoài ra, 68 điệp vụ hỗ trợ
được thực hiện(
2
). Trung tá Jonathan Carney, sếp phó của OP35 năm 1967,
tin là "chúng tôi gây thiệt hại cho miền Bắc... chúng tôi giết được nhiều
người và buộc họ tiêu tốn nhiều năng lực để ngăn cản hoạt động của chúng
tôi. Điều đó làm tổn hại đáng kể cho nỗ lực hậu cần của họ"(
lệnh Thái Bình Dương và MACV cũng thấy như vậy và hối thúc có nhiều
hoạt động hơn. Hà Nội cũng đã nhận ra và bắt đầu triển khai nhiều biện
pháp đối phó để bảo vệ khoản đầu tư vào Lào của mình.
OP35 mở rộng hoạt động vượt ra những gì đã thực hiện trong năm 1966 và
trở thành một phần của hệ thống chống xâm nhập của Bộ trưởng
McNamara. "Vào tháng 12-1966, Bộ trưởng Quốc phòng chỉ thị triển khai
một hệ thống điện tử để ngăn chặn sự xâm nhập của người và phương tiện
từ miền Bắc và Lào xuống miền Nam. Hệ thống này mang tên: Hệ thống
chống xâm nhập Mussel Shoalss. Còn được biết đến với tên "Hàng rào
McNamara", hệ thống này gồm các thiết bị cảm ứng địa chấn và âm thanh
để phát hiện sự di chuyển của đối phương. Khi những "chiếc mũi" này đánh
hơi thấy mục tiêu, máy bay sẽ được gọi đến để ném bom tiêu diệt. Các toán
của SOG mang các thiết bị cảm ứng này cài cắm ở Lào. Họ không thích gì
nhiệm vụ này vì thiết bị cảm ứng nặng và cồng kềnh. Thông thường họ phải
di chuyển thật nhanh vì đối phương truy đuổi sát đằng sau. Loại thiết bị này
làm giảm tốc độ của họ.
Sự thay đổi lớn nhất trong năm 1967 là việc bổ sung Campuchia vào địa
bàn hoạt động của SOG. Hoạt động của miền Bắc ở Campuchia bắt đầu gây
lo ngại cho MACV từ 1965. Các tư lệnh chiến trường của Westmoreland
cảm nhận rõ ràng là Bắc Việt Nam đã triển khai các tuyến xâm nhập, sở chỉ
huy, căn cứ vào cơ sở tiếp tế ở đó. Thực chất của vấn đề là đường mòn Hồ