Năm 1967, tướng Westmoreland một lần nữa gây sức ép yêu cầu cho phép
SOG cử các toán thám báo sang Campuchia làm nhiệm vụ trinh sát. Ít nhất,
theo Westmoreland, họ có thể "cảnh báo trước về sự di chuyển của đối
phương", cho phép "triển khai lực lượng kịp thời để đối phó". Bộ Ngoại
giao không chịu, nhưng lần này phần thua về họ. Tháng Năm, SOG nhận
được chỉ thị tiến hành hoạt động qua giới tuyến ở Campuchia. Nhiệm vụ
này có mật danh Dannial Boong với mục đích "thu thập tình báo, chủ yếu là
vùng ngã ba biên giới" Lào, Việt Nam và Campuchia(
Đó là chiến thắng lớn đối với SOG, nhưng cần phải vạch ra chi tiết cụ thể.
Các nhà địa chính trị ở Bộ Ngoại giao không lùi bước và tỏ ra cứng rắn
không kém Sullivan khi thảo luận các chi tiết nhỏ. Theo một tài liệu được
giải mật, "có nhiều giới hạn" (
1
)thậm chí còn chặt chẽ hơn những quy định
được áp dụng tại Lào. Đầu tiên, địa bàn hoạt động chỉ giới hạn ở vùng đông
bắc Campuchia, từ biên giới Lào, giáp với vùng Tây Nguyên kéo xuống
vùng mỏ vẹt ở Campuchia. Khu vực này tập trung nhiều lực lượng của đối
phương, trong đó có cơ sở chỉ huy chính của quân đội Bắc Việt, được biết
đến dưới cái tên "Trung ương Cục miền Nam"- COSVN(
vùng lưỡi câu là ngoài địa bàn hoạt động của SOG. Một khi đã qua biên
giới, các toán biệt kích không được đi sâu quá 5km.
Đó mới chỉ là một phần của những gì mà Bộ Ngoại giao đạt được. Các toán
của SOG phải đi bộ vào hoặc ra khỏi Campuchia. Trực thăng chỉ được sử
dụng "để kéo ra trong trường hợp khẩn cấp”. Các vụ không kích bằng máy
bay chiến thuật hoặc sử dụng lực lượng hỗ trợ đều không được phép. Một
khi đã qua biên giới, các toán thám báo tự lo liệu cho mình bất kể tình
huống nguy hiểm như thế nào. Thời gian hoạt động "giữ" ở mức tối thiểu
cần thiết cho việc trinh sát. Các toán "tránh va chạm" và chỉ "đụng độ khi
không còn cách nào khác để tránh bị bắt giữ". Cuối cùng, số lượng điệp vụ
"không vượt quá 10 trong thời gian 30 ngày”(
).