Phải biết chữ Hám mà ngâm lên mới thấy bài này là hay, lâm li, du
dương. Khác hẳn những bài trước, bài này hơi có cái giọng từ phú. Mỗi câu
có hai đoạn (chúng tôi không thể gọi là vế được, vì không cân nhau, đối
nhau), dài ngắn gần như nhau, mà tiếng cuối đoạn trên là trắc thì tiếng cuối
đoạn dưới là bằng, hoặc ngược lại (như câu đầu của bài văn tế
: giả và
tâm). Lại thêm nhiều câu có vần: như cuối câu ba là vi, cuối câu tư là thuỳ;
vương (đắc nhất sĩ vi khả vương) vần với mang, thường, hoàng, thương,
quang trong những câu sau. Một đặc điểm nữa, trong mỗi đoạn của mỗi
câu, tác giả thường dùng những hư từ như nhi, kì, hồ, nhất là chi, để ngắt
đoạn làm đôi, tựa như làm nhịp. Nhờ kĩ thuật đó mà bài văn du dương lạ
lùng, như biền văn mà tự nhiên như tản văn, diễn được những cảm xúc chân
thành mà ai oán. Rõ ràng là Hàn Dũ đã sụt sùi trước mộ Điền Hoành. Hay
nhất là mấy câu đầu từ “Sự hữu khoáng bách thế…” đến “kì tòng thuỳ”.