Tây đầu tiên ở Jerusalem, W. T. Young, và bảo ông này “bảo vệ cho người
Do Thái nói chung.”
Hai năm sau, ông viết thư cho Ngài Ponsonby, Đại sứ
Anh ở Constantinople, chỉ thị ông ta gây áp lực để người Thổ cho phép
người Do Thái từ châu Âu trở lại Palestine, ông lập luận rằng những người
định cư Do Thái chăm chỉ làm việc và được tiền của từ nhà Rothschild hậu
thuẫn “sẽ có xu hướng rất lớn nhằm gia tăng nguồn lực của đế chế Thổ Nhĩ
Kỳ, và thúc đẩy sự tiến bộ của nền văn minh ở đó.” Shaftesbury viết,
“Palmerston đã được Chúa chọn để làm công cụ thiện lương cho người dân
cổ xưa của Người”; thư gửi Ponsonby là “một mở đầu cho Biểu trưng về
Sắc lệnh Cyrus.”
Palmerston cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người Do Thái
phương Tây giàu có tới cứu những đồng đạo khổ sở của mình. Tháng 2
năm 1840, vụ sát hại một thầy dòng Capuchin (và đầy tớ của ông) ở
Damascus đã hồi sinh lời vu cáo máu một cách đột ngột và đáng sợ. Người
Capuchin địa phương nhanh chóng tuyên bố rằng hai người này bị người
Do Thái giết để lấy máu dùng cho lễ Vượt qua. Cả Thống đốc Thổ Nhĩ Kỳ
lẫn Lãnh sự Pháp, có nhiệm vụ chính thức là bảo vệ cộng đồng Kitô, đều
tin vào lời buộc tội đó và tiến hành một cuộc điều tra tàn bạo dựa trên cơ sở
này. Một thợ cạo Do Thái, Solomon Negrin, do bị tra tấn đã thú nhận và tố
cáo những người Do Thái khác. Hai trong số đó chết do bị tra tấn, một
người cải sang Hồi giáo để thoát chết, còn những người khác thì cung cấp
thông tin, dẫn tới việc thêm nhiều người Do Thái khác bị bắt giữ. Bạo lực
lên tới đỉnh điểm qua việc 63 đứa trẻ Do Thái bị bắt làm con tin cho tới khi
các bà mẹ tiết lộ nơi giấu máu.
Một trong những người Do Thái bị bắt là công dân Áo, và điều đó đã dẫn
tới việc các cường quốc quan tâm trực tiếp đến chuyện này. Ở London,
Palmerston nhận được lời kêu gọi giúp đỡ của Ngài Moses Montefiore
(1784-1885), Chủ tịch Hội đồng đại biểu, tổ chức đại diện cho người Do
Thái Anh. Montefiore, người thực ra sinh ở Leghorn, từng là một trong 12
“người môi giới Do Thái” của Trung tâm tài chính và thương mại London,