đến gặp ông. Tướng Hans Speidel, một tham mưu trưởng của ông ta cũng
ngấm ngầm ủng hộ nhóm mưu phản.
Sự vượt trội về vật chất, vũ khí của quân Đồng minh đã đè bẹp lực
lượng quân đội xâm lược, càng làm cho họ tin rằng quân đội Đức không thể
cầm cự lâu dài ở mặt trận Normandie mà sẽ phải chịu đựng những tổn thất
lớn. Dẫu vậy Hitler đã không chấp nhận những luận chứng của các vị thống
chế, các tướng lĩnh về hoàn cảnh bất lợi của quân đội Đức.
Việc Cục tình báo quân đội bị giải tán đã gây cho những người mưu
phản nhiều khó khăn. Trong năm 1943, ít ra cũng đã có 6 vụ định mưu sát
Hitler, nhưng đều không thành. Stauffenberg hiểu rằng việc lật đổ chế độ
Quốc xã là khó thành công, trừ khi không còn Hitler nữa. Sự có mặt của
Hitler đã làm tê liệt ý chí các tướng tá, thêm vào đó, họ đã gắn bó với lời
thề trung thành đã được nêu lên trước Hitler và ông thống chế, tổng thống
già Hindenburg.
Cuộc đổ bộ và những thắng lợi quân sự đầu tiên trên mặt trận Pháp, cuộc
tiến quân của Đồng minh vào nước Ý và Rome, sự tan vỡ, tháo chạy của
quân Đức ở mặt trận phía Đông, và Hồng quân Liên Xô đã tiến vào Ba Lan,
đã cho Stauffenberg thấy không còn tránh được nữa. Nhưng những người
mưu phản lại trù tính sai lầm. Họ cho rằng cái chết của Hitler có thể cho họ
cơ hội ký hòa ước với các nước phía Tây. Họ mong có cuộc đình chiến
ngay, nhưng lại từ chối không chịu đầu hàng vô điều kiện. Kế hoạch hòa
bình do Carl Goerdeler đưa ra là không tưởng. Hòa bình ở phía Tây cũng
không ngăn được sự tiến quân như vũ bão của quân Đồng minh ở phía
Đông, ngược lại, những người mưu phản tin rằng khi thành lập được chính
quyền tạm thời thì quân đội Mỹ và Anh sẽ hợp tác với họ để chống lại
người Nga. Điều đó chứng tỏ họ không biết gì về hiệp ước Yalta
. Cũng
có nghĩa nếu cuộc mưu phản thành công thì mọi việc cũng không có chuyển
biến sâu sắc nào. Quân Đồng minh và Liên Xô vẫn tiến quân tiêu diệt bọn
Quốc xã tận hang ổ của nó.
Nếu Hitler chết, những người mưu phản sẽ nắm lấy chính phủ Đức thì
chắc các nước phương Tây vẫn từ chối lời đề nghị hòa bình của họ. Chưa