phát động công nhân đấu tranh. Trái lại, họ thúc đẩy công nhân nước này đi
bắn giết công nhân nước khác để “bảo vệ Tổ quốc” của bọn tư bản. Chủ
trương sai lầm đó đã được chứng thực khi chiến tranh xảy ra. Ngày 4-8-
1914, trong nghị viện Đức cũng như trong nghị viện Pháp, những nghị viên
xã hội dân chủ đã bỏ phiếu tán thành ngân sách chiến tranh. Những đảng
viên Đảng Xã hội Pháp và Bỉ đã tham gia các chính phủ tư sản phản động,
củng cố khối liên minh với giai cấp tư sản. Ở Anh, các lãnh tụ Công đảng
ủng hộ chính phủ không điều kiện, ở Nga, bọn Mensêvích tham gia các tổ
chức do chính phủ Nga hoàng lập ra.
Sự phản bội của lãnh tụ các đảng Xã hội dân chủ và Quốc tế II là kết
quả tất nhiên của chính sách dung túng chủ nghĩa cơ hội trong một thời
gian dài trước chiến tranh. Cuộc chiến tranh thế giới đã vạch trần bản chất
tư sản của chủ nghĩa cơ hội là những kẻ công khai bảo vệ chủ nghĩa tư bản,
chống lại giai cấp công nhân.
2. Sự tan rã của Quốc tế II và cuộc đấu tranh của Lênin cho
một tổ chức quốc tế mới
Do chính sách sô-vanh phản động mà khi chiến tranh bùng nổ, Quốc
tế II bị tan rã, Lênin đã đấu tranh vạch mặt bọn chúng và chỉ ra rằng sự phá
sản của Quốc tế II là hậu quả của sự phản bội không thể dung thứ được của
số đông các Đảng Xã hội dân chủ đối với lý tưởng của mình, đối với những
lời tuyên bố trịnh trọng ở các đại hội quốc tế Stútga và Balơ… Số đông các
Đảng Xã hội dân chủ đã đứng sang phía chính phủ nước “mình”, ủng hộ
giai cấp tư sản nước “mình” chống lại giai cấp vô sản.
Trong Quốc tế II lúc bấy giờ chỉ có Đảng Bônsêvích do Lênin đứng
đầu là vạch ra một cương lĩnh mácxít cách mạng triệt để về vấn đề chiến
tranh. Ngay từ những năm trước chiến tranh, Lênin và những người
Bônsêvích đã tích cực hoạt động để tổ chức những lực lượng lẻ tẻ và chưa
trưởng thành của cánh tả trong Quốc tế II, lôi kéo họ ra khỏi bọn cơ hội để
tổ chức nhóm cánh tả rộng rãi. Trong thời gian đại hội Stútga (1907) cũng