như đại hội Côpenhaghen (1910), Lênin đã triệu tập hội nghị những người
cánh tả trong Quốc tế II. Nhưng hội nghị cánh tả cũng như lời kêu gọi của
Đảng Bônsêvích chưa được hưởng ứng rộng rãi trong phong trào công
nhân.
Cuộc hội nghị Dimécvan (Thụy Sĩ) họp từ 23 đến 26-8-1915 đã diễn
ra cuộc đấu tranh gay go giữa những người cách mạng theo chủ nghĩa quốc
tế và phái đa số Cauxki. vì “phái giữa” chiếm ưu thế, nên khi đó chưa thể
thi hành một đường lối thực sự Bônsêvích. Trong hội nghị, Lênin đã tổ
chức ra “nhóm Dimécvan” có 8 người và thông qua nhóm này, Lênin có
thể đưa được nhiều nguyên lý của chủ nghĩa Mác cách mạng vào các nghị
quyết của hội nghị.
Hội nghị Dimécvan lần thứ 2 họp ở Kintan (Thụy Sĩ) vào ngày 20-4-
1916. Lúc này nhóm “Dimécvan tả” đã có 11 đại biểu.
Từ hội nghị Dimécvan lần thứ nhất, phong trào chống chiến tranh đã
lên mạnh. Ở Đức thành lập nhóm “Spactacút” tháng 1-1916 gồm những
người phái tả trong đảng Xã hội dân chủ Đức. Đó là một sự kiện có ý nghĩa
quan trọng vì rằng lúc bấy giờ, đảng Xã hội dân chủ Đức là một đảng lớn,
nước Đức lại đóng vai trò chủ yếu trong chiến tranh. Cương lĩnh của nhóm
đã nêu lên việc thành lập “Quốc tế công nhân mới”, song chưa vạch rõ
những hành động cụ thể chống chiến tranh. Do tình hình quốc tế thay đổi,
quần chúng lao động ngày càng biểu lộ thái độ tích cực chống chiến tranh,
nên thái độ các đoàn đại biểu cũng có sự thay đổi.
3. Sách lược của Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đối với chiến
tranh và cách mạng
Trong suốt thời gian chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Đảng Bônsêvích
do Lênin lãnh đạo không bị dao động, vẫn trung thành với những nguyên
tắc của chủ nghĩa Mác cách mạng và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đảng
Bônsêvích đã giương cao ngọn cờ đấu tranh kiên quyết chống chiến tranh
đế quốc và chống chủ nghĩa xã hội sô-vanh.