bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên toàn quyền cùng với một hội đồng do chính
phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên cạnh có tòa án tối cao. Đồng
thời ở Luân Đôn thiết lập một hội đồng kiểm soát các công việc của công ty
ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các.
Tính chất của sự bóc lột trong thời kỳ này tương ứng với thời kỳ tích
lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ
yếu là thu thuế và vơ vét. Việc buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến
hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm trọng: hàng từ Ấn Độ
sang Anh đóng thuế gấp 10 lần hàng từ Anh vào Ấn Độ.
Hậu quả tất
nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng cùng khổ của nhân dân
Ấn Độ. Nạn đói xảy ra liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới mười triệu người
chết đói.
3. Thực dân Anh hoàn thành việc xâm chiếm Ấn Độ và phong
trào chống Anh nửa đầu thế kỷ XIX
Ở Ấn Độ, thế kỷ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược
của nhân dân. Năm 1806, các trung đoàn Xipai nổi dậy ở Benlua (Nam
Ấn). Năm 1816 binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo quần chúng
nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xêit Acmet Barenvi (1786-1831)
đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ ở
biên giới phía tây bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đadu Mian ở Bengan
vừa chống xâm lược Anh, vừa tấn công vào bọn quý tộc phong kiến.
Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về thành kiến tôn
giáo nên phong trào bị thất bại. Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân
Anh chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các vương quốc của người Marat ở miền
Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Marat đã đứng lên đấu tranh chống
xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến, chiến
tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu
thuẫn gay gắt trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho
thực dân Anh. Cuộc chiến tranh năm 1803-1805 đem lại cho Anh thêm