thành một thị trường cung cấp nguyên liệu nông phẩm, tăng cường đầu tư
và áp dụng kỹ thuật vào canh tác. Điều đó làm cho kinh tế hàng hóa xâm
nhập mạnh mẽ vào nông thôn và làm xuất hiện những giai cấp mới: một
bên là địa chủ tư sản hóa và tư sản nông nghiệp, một bên là vô sản nông
nghiệp.
Hàng hóa công nghiệp nước ngoài tràn vào thị trường Thổ đã giáng
một đòn nghiêm trọng vào nền sản xuất thủ công ở đây. Thay thế vào đó là
những công xưởng của tư bản nước ngoài và bắt đầu xuất hiện những nhà
máy của tư bản Thổ. Hậu quả xã hội của sự phát triển công thương nghiệp
là sự xuất hiện giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản Thổ Nhĩ
Kỳ có đặc điểm là số nhà buôn chiếm ưu thế so với chủ xí nghiệp. Nó gắn
chặt với thị trường bên ngoài và phụ thuộc vào đế quốc. Tầng lớp tư sản
công nghiệp phát triển dưới sự khống chế của tư bản nước ngoài, rất yếu ớt.
Bên cạnh đó còn có những người trí thức tư sản như thầy giáo, thầy thuốc,
luật sư, kỹ thuật gia, nhân viên các công ty, nhà văn, nhà báo, một bộ phận
sĩ quan và quan lại. Họ thuộc các dân tộc khác nhau, phần lớn không phải
là người Tuyếccơ. Giai cấp vô sản cũng vậy. Cho nên bọn đế quốc và chính
quyền phong kiến thường lợi dụng sự hiềm khích dân tộc để chia rẽ họ và
làm suy yếu lực lượng chống đế quốc, chống phong kiến. Nhưng thủ đoạn
đó không thể ngăn cản được những phần tử tiến bộ của tất cả các dân tộc
trong đế quốc Ôxman, do giác ngộ quyền lợi giai cấp, tiến hành đấu tranh
chống chế độ độc tài Apđun Hamít.
III. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG ĐẦU THẾ
KỶ XX Ở THỔ NHĨ KÌ
1. Tình thế cách mạng chín mùi
Theo đuổi mục đích lật đổ nền thống trị của Ápđun Hamít, nhiều tổ
chức tiến bộ được thành lập ở trong và ngoài nước. Có ảnh hưởng lớn hơn
cả là “Hội Thống nhất và Tiến bộ” ra đời năm 1894 ở Ixtambun gồm phần