đầu nơi các núi lửa phun ra rất nhiều hóa chất, cuộn xoáy lẫn với nhau, liên
tục bị tấn công bởi những tia chớp từ những cơn bão bất tận… cho tới khi
đột nhiên, giống như một dạng ma tượng
cực nhỏ, những sinh vật đơn bào
đầu tiên xuất hiện.
“Ambra,” Langdon nói, “cô là người quản lý bảo tàng… hẳn cô đã thảo
luận thường xuyên về nghệ thuật với Edmond. Cậu ấy có bao giờ nói với cô
cụ thể gì đó về Gaudí không?”
“Chỉ những gì Winston đã đề cập,” nàng đáp. “Kiến trúc của ông ấy có
cảm giác như thể được chính tự nhiên tạo ra. Các hang động của Gaudí như
được đẽo bởi gió và mưa, các cột chống đỡ như từ đất mọc lên, còn tác
phẩm gạch lát của ông ấy giống như sự sống nguyên thủy ở biển.” Nàng
nhún vai. “Dù lý do là gì thì Edmond cũng ngưỡng mộ Gaudí đến mức
chuyển tới Tây Ban Nha.”
Langdon liếc nhìn nàng với vẻ ngạc nhiên. Ông biết Edmond sở hữu nhà
ở vài nước trên thế giới, nhưng những năm gần đây, anh chọn định cư tại
Tây Ban Nha.
“Cô nói Edmond chuyển tới đây vì nghệ thuật của Gaudí à?”
“Tôi tin là vậy,” Ambra nói. “Tôi có lần đã hỏi anh ấy, ‘Tại sao lại là Tây
Ban Nha?’ và anh ấy bảo tôi rằng anh ấy có cơ hội hiếm hoi được thuê một
cơ ngơi độc đáo tại đây - một cơ ngơi không giống bất kỳ thứ gì khác trên
thế giới. Tôi cho rằng ý anh ấy là căn hộ của mình,” nàng nói.
“Căn hộ của cậu ấy ở đâu?”
“Robert, Edmond sống ở Casa Milà.”
Langdon sửng sốt. “Casa Milà à?”
“Một và duy nhất,” nàng gật đầu trả lời. “Năm ngoái, anh ấy thuê toàn bộ
tầng trên cùng làm căn hộ tầng mái của mình.”
Langdon cần một lúc để lĩnh hội thông tin này. Casa Milà là một trong
những tòa nhà nổi tiếng nhất của Gaudí - một “ngôi nhà” độc đáo đến kinh
ngạc có phần mặt tiền chia nhiều tầng và các ban công đá nhấp nhô lượn
sóng trông rất giống một ngọn núi bị khoét thủng, khiến nó mang cái biệt
danh hiện giờ rất thông dụng là “La Pedrera” - nghĩa là “mỏ đá.”