Alsace (Pháp) cũng đã tạo ra cả một diễn biến dây chuyền phức tạp đến
mức cần phải có đại bản doanh ở Tokyo bật đèn xanh. Ban giám đốc xí
nghiệp mặc dù đã tỏ ra rất lịch sự và nhiệt tình, vẫn phải điện xin phép ban
lãnh đạo của Sony-France. Trung tâm này lập tức một mặt thu thập thông
tin về cá nhân nhà báo, mặt khác điện về xin phép trung tâm đầu não ở
Tokyo.
Hợp nhất và sở hữu: cơn băng hoại Nhật Bản
Một thủ đoạn khác của Nhật Bản trong sử dụng đầu tư đang khiến các
nhà công nghiệp phương Tây không ngừng lo sợ: các tập đoàn Nhật Bản có
khuynh hướng mua cổ phần trong các xí nghiệp và công ty của nước sở tại.
Phương thức này là nhân tố chủ yếu cho chiến lược mà Nhật Bản đang đeo
đuổi nhằm tiến đến “quốc tế hóa” và “thế giới hóa”. Người Nhật đã âm
thầm bắt đầu công việc này cách đây không lâu. Các động tác quan trọng
đầu tiên đã được thực hiện vào đầu những năm 80. Sau đó, do sự cạnh tranh
gay gắt ở ngay tại nước Nhật, nhịp độ này đột ngột gia tăng vào cuối thập
niên 80. Giờ đây, việc săn lùng các lĩnh vực kinh doanh béo bở đã trở thành
một làn sóng đổ xô đi tìm kiếm các cơ hội làm ăn. Sự lộn xộn diễn ra như
chưa từng thấy. Mỗi người ở Nhật Bản đều muốn chia phần cái bánh nếu
như cái bánh vẫn còn. Ai đến trước thì sẽ được nhận. Và thế là hàng trăm
công ty nước ngoài, đôi khi cả những công ty nổi tiếng đã dần dần trở thành
tài sản của người Nhật. Sự hợp nhất và chiếm hữu bao gồm mọi lĩnh vực
của hoạt động kinh tế: công nghiệp, ngân hàng, tín dụng, dịch vụ.
Có nhiều cách hợp nhất và chiếm hữu. Cách đầu tiên là góp vốn vào một
xí nghiệp. Ở đây mức góp vốn có thể là thiểu số (dưới 50%) hoặc đa số
(hơn một nửa cố phần). Trong trường hợp thứ nhất, người mua không thể có
vai trò quyết định trong xí nghiệp trừ phi người này liên kết với những cổ
đông khác và chiếm đa số vốn. Để tránh gây ra tâm lý lo sợ và những phản
ứng tẩy chay, thì trong bước đầu, các nhà đầu tư Nhật Bản thường bằng
lòng ở mức thiểu số. Trong trường hợp thứ hai, người mua hơn một nửa các
cổ phần đương nhiên sẽ là người chủ mới của xí nghiệp. Các quan điểm của
ông ta sẽ chi phối tại hội đồng quản trị xí nghiệp. Mặt khác, việc ra giá cũng
có thể tạo một phản ứng thân thiện hay ác cảm. Trong trường hợp đầu,
người mua thảo luận với người chủ xí nghiệp về giá cả, các điều kiện mua
bán và về tương lai của xí nghiệp. Còn trong trường hợp thứ hai là người
mua nhảy xổ vào giành giật bằng cách nâng giá để loại bỏ sự cạnh tranh.
Trong thời gian đầu, người Nhật thường ít dám mạo hiểm với cách ra giá dễ
gây ác cảm.
Vấn đề cần làm là lập một bản đồ chi tiết về mức góp vốn của các nhà
đầu tư Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới. Nó cho phép xác định chính xác
con bạch tuộc Nhật Bản đã vươn những cái vòi của nó đến đâu. Song như
ngay công việc này cũng khá phức tạp vì tình hình diễn biến nhanh chóng