Mặc dù phần cho vay lãi suất thấp gắn với những hợp đồng ký với các xí nghiệp Nhật
đang giảm đi, phần này vẫn còn chiếm tới 20% trong năm 1989, theo các số liệu chính
thức. Và dù người ta có nói rằng các khoản tiền bỏ ra trên lý thuyết có thể dùng để tiến
hành các dự án với những bạn hàng không phải Nhật Bản thì trong thực tế cứ hai dự án
thì có một được thực hiện với các xí nghiệp Nhật Bản. Trong trường hợp đó, viện trợ
của Nhật trở thành một hình thức tài trợ ngụy trang cho chính nền công nghiệp của họ.
Cũng cần phải thấy rằng Nhật Bản đang củng cố các vị trị của họ và tăng cường ảnh
hưởng của họ ở châu Phi và châu Mỹ La tinh nhờ những chương trình trợ giúp tiền bạc
nói chung chẳng hao tốn gì lắm. Chẳng hề muốn đầu tư vào vì không đảm bảo lãi,
chính phủ Nhật đổ vào lục địa châu Phi những khoảng viện trợ nhỏ từ 5 đến 150 triệu
đô la nhằm xây dựng chỗ này một chiếc cầu hay nhà máy điện, chỗ kia một trường học
hoặc một cái đập. Năm 1990, những nước châu Phi chủ yếu nhận viện trợ của Nhật là
Niger (20 triệu franc + 35 triệu franc), Guinée-Bissau (18 triệu franc), Công hòa Trung
Phi (8 triệu franc), Bờ biến Ngà (đủ loại tín dụng), Ouganda (30 triệu franc + 20 triệu
franc), Nigeria (90 triệu franc), Burkina (viện trợ lương thực 7,2 triệu franc), Algérie
(cho vay đủ loại), Guinée (30 triệu franc), Djibouti (30 triệu franc), Sénégal (100 triệu
franc) và Ghana (1,2 triệu franc). Ở châu Mỹ La tinh, Nhật Bản ít viện trợ hơn mà
thường cho vay lãi suất thấp. Những nước may mắn được vay có: Équateur (56 triệu
đô la), Mêhicô (375 triệu đô la).
Danh sách ấy không hề là một danh sách giới hạn, vì rõ ràng là có nhiều nước đang
phát triển khác cũng kêu gọi khẩn cấp nguồn vốn của Nhật. Nhưng, dù các khoản viện
trợ và cho vay ấy có bị ràng buộc hay không với việc phải mua hàng của Nhật, thì
chúng ta cũng phải nhớ rằng đồng tiền bỏ ra ấy nhất thiết có mặt trái của nó: mở rộng
ảnh hưởng của Nhật ra khắp thế giới.
Viện trợ phát triển năm 1989 (triệu đô la)
Tổng số
Tỷ lệ/PNB
Pháp
5.140
0.54%
CHLB Đức
4.950
0.41%
Nhật Bản
8.960
0.32%
Mỹ
7.660
0,15%
Nguồn: OCDE
Lạm phát
Về lạm phát, Nhật Bản cũng là cậu học trò đứng đầu bảng trong số bảy nước công
nghiệp hàng đầu, trong ba năm liền. Trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, Nhật Bản cũng là nước
xuất sắc dẫn đầu OCDE. Đây là một dấu hiệu không thế nhầm lẫn về “sức khỏe” của
nền kinh tế Nhật.
Tỷ lệ lạm phát trung bình hàng năm trong khối OCDE
1987
1988
1989
Mỹ
3,7
4,1
4,8