Giai đoạn đầu: theo kịch bản cổ điển, các ngành công nghiệp Nhật Bản
bán hàng hóa ra thị trường thế giới thông qua trung gian các hệ thống phân
phối quy ước của nước ngoài hoặc của Nhật. Nếu thuận lợi, nhà công
nghiệp Nhật tiêu thụ sản phẩm của mình nhờ một hãng đại diện thương mại
Nhật (Sôgô Sôsha). Sau đó, nếu cảm thấy có lực để thử mạo hiểm, nhà công
nghiệp Nhật sẽ xây dựng những chi nhánh phân phối của chính mình ở hải
ngoại.
Giai đoạn hai: các nhà công nghiệp Nhật có phương tiện thì thiết lập trực
tiếp ở nước ngoài các nhà máy sản xuất của họ, đôi khi ngay cả các phòng
nghiên cứu thiết kế sản phẩm. Sự phi địa phương hóa ấy cho phép họ thiết
kế và sản xuất những sản phẩm nhắm vào và thích nghi hơn với nhu cầu của
khách hàng địa phương. Cái lợi trước mắt là giá thành sản xuất giảm nhờ
nhân công địa phương rẻ hơn và không còn chi phí vận chuyển. Cái lợi lâu
dài là chiếm lĩnh những phần thị trường mới và cạnh tranh.
Giai đoạn thứ ba và cuối cùng: các ngân hàng, hãng bảo hiểm, hãng môi
giới Nhật Bản đổ bộ lên thị trường nước ngoài. Môi giới tài chính đến lượt
nó được phi địa phương hóa, cho phép họ mua lại liên tiếp các xí nghiệp.
Trong khi đó, các Sôgô sôsha thực sự trở thành những trung tâm tình báo
kinh tế và hoạt động hết công suất, nhằm thu nhập thông tin trong tất cả các
lĩnh vực mua và bán.
Dĩ nhiên, Nhật Bản không phải là nước đầu tiên đầu tư ra nước ngoài.
Trước Nhật từ lâu, Anh quốc ở thế kỷ XIX, rồi Mỹ ở thế kỷ XX đã nêu
gương về mặt sử dụng sức mạnh công nghiệp của họ để mở rộng ảnh hưởng
ra xa ngoài biên giới, ở các thuộc địa (Anh) và ở châu Âu (Mỹ). Nhưng ở
cuối thế kỷ XX này, kết quả của cuộc tấn công của Nhật Bản trên thế giới –
một quá trình còn lâu mới chấm dứt – đã nổi bật đến nỗi gần như làm người
ta quên đi hai cường quốc đang suy yếu kia. Từ Trung Quốc đến Hà Lan,
qua Indonésia và Mỹ La tinh, không còn vùng nào trên thế giới thoát khỏi
cặp mắt chăm chú theo dõi của các nhà đầu tư Nhật. Về giá trị tuyệt đối và
riêng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, Nhật chỉ mới đứng hàng thứ ba trên
thế giới, khá xa sau Mỹ và Anh. Năm 1988, tổng số đầu tư trực tiếp của
Nhật Bản thực hiện ở nước ngoài lên tới 110,8 tỷ đô la, tăng cực nhanh đến
43,9% trong vòng chỉ một năm, so với năm 1987.
Tuy nhiên, lúc ấy Nhật chỉ chiếm 10,7% tổng số đầu tư trực tiếp thực
hiện trên thế giới. Mỹ đứng đầu với 31,7% tổng số đầu tư trên thế giới (326
tỷ đô la). Đứng thứ nhì là Anh với 17,8% (183,7 tỷ đô la)
[40]
. Nhưng cần
nhớ rằng chỉ mới lao vào cuộc đua gần đây. Xuất phát từ bậc thang cuối
cùng, Nhật đã leo các nấc thang với tốc độ kỷ lục, và nếu nhịp độ hiện nay
vẫn tiếp tục, chẳng bao lâu Nhật sẽ dẫn đầu.