nhất là việc thu thập và phân tích thông tin phải chính xác, hoàn
thiện, kịp thời để quyết sách có tác dụng.
3. Quyết sách có thành công hay không có liên quan
chặt chẽ với các điều kiện khách quan, chủ quan của các sự
kiện mà nó phải đối mặt. Một quyết sách thành công không chỉ
phải suy nghĩ đến nhu cầu mà còn phải suy nghĩ đến khả năng.
Người quyết sách có nghị lực vừa dám nhận trách nhiệm và rủi ro,
lại vừa không mạo hiểm một cách mù quáng, thông thường họ xác
định xem phương án có tính khả thi hay không rồi mới bắt tay vào
thực hiện.
4. Quản lý phải làm hết sức mình để quyết sách đạt được
độ tối ưu nhất. Do người quyết sách bị hạn chế bởi năng lực
nhận thức, thời gian, kinh phí, tình báo và các mặt khác, nên khi
quyết sách, mọi người không thể kiên trì đòi hỏi giải pháp lý tưởng
nhất, thông thường chỉ có thể thỏa mãn với một quyết sách “vừa đủ
hoặc làm người khác hài lòng”.
5. Quyết sách không chỉ hạn chế ở việc chọn một phương
án hành động trong một vài phương án mà phải tuân theo
định luật nhận thức nhất định, bắt đầu từ đề xuất vấn đề,
qua phân tích, cuối cùng xác định một quá trình phân tích hệ
thống những vấn đề cần giải quyết.
Chế độ quyết sách nên bao gồm các mặt sau đây:
Số người thẩm định: 5 người là lý tưởng nhất.
Được đa số người thông qua.
Có những ý kiến phản đối mới tốt.