đưa ông ta vào những tình huống đối đầu đầy thử thách và luôn âm mưu
giết ông ấy.
John nói tiếp: “Ông ấy đã hơn một lần cố gắng làm cho những người
khác từ bỏ cuộc chiến, nhưng bất cứ khi nào ông ấy cảm thấy thất bại đang
kề cận, ông ấy đều mở lá thư của Wesley ra xem. Mỗi lần mở lá thư ra xem,
ông luôn có cảm giác như mới đọc nó lần đầu. Lá thư đã động viên và tiếp
thêm sức mạnh cho ông ấy.
“Nếu ông không tin vào sức mạnh động viên của là thư này,”, John nói,
“thì ông sẽ không bao giờ có thể làm được.”
Tôi có thể chứng minh thực tế là John tin vào sức mạnh đó. Tôi đã nhận
được vài tin nhắn động viên từ ông ấy trong suốt những năm cùng làm việc,
và tôi vẫn còn giữ chúng. Chúng có thể không có giá trị lịch sử như lá thư
của Wesley viết cho Wilberforce, nhưng những gì chúng đem lại cho tôi là
vô giá.
Chắc bạn chưa đóan ra rằng tôi là một người tôn sung lịch sử. Để tôi kể
với bạn phần còn lại của cấu chuyện: vào năm 1806, sau khi làm việc
không ngừng nghỉ trong suốt hai mươi năm ròng, Wilberforce cuối cùng
cũng đã thành công trong việc thông qua văn bản cấm việc buôn bán nô lệ.
Hai mươi tám năm sau đó, vào 31 tháng 7 năm 1834, những người chiếm
hữu nô lện đã phá luật của Đế chế Anh, giải phóng gần tám trăm nghìn nô
lệ. Tiếc thay, William Welberforce đã mất vào ngày 5 tháng 8 năm 1833.
Mặc dù ông ấy không còn sống để nhìn thấy giấc mơ trở thành hiện thực,
nhưng không ai khác có vai trò cao hơn William Wilberforce trong việc làm
những người chiếm hữu nô lệ tại đế chế Anh Quốc thất bại.
Wilberforce qua đời khi đang là một trong những người được kính phục
và nể trọng nhất vào thời kì đó. Ông được an táng tại Westminster Abbey.
Đây là một phần khắc trên bia mộ của ông ấy:
Đáng kính khi ông ấy hòa mình trong quần chúng lao động
Và là người đứng đầu trong mọi công việc từ thiện