Chúa và giá trị của những lơi cầu nguyện sau khi ông có cuộc sống an nhàn
sau cuộc đảo chính tháng 8/1991.
Tschernajew, Die letzten Jahre einer Weltmacht, tr. 373. Kohl nói với
Gorbachev rằng nếu ông tham gia cuộc gặp London với tư cách quan sát
viên, ông sẽ trở thành thành viên chính thức trong cuộc gặp năm 1992 tại
Munich.
Matlock, Autopsy on an Empire, tr.538. Niềm tin của bà Thatcher vào
Mikhail Gorbachev bị lung lay sau khi hai bên rời khỏi văn phòng. Năm
1992, Vladimir Bukovsky chỉ cho Thatcher bản sao một tài liệu có chữ ký
của Gorbachev, cam kết chi 1 triệu đôla cho Hiệp hội Công nhân mỏ do
Arthur Scargill lãnh đạo, trong khi thợ mỏ đang tiếp tục đình công chống lại
chính phủ của bà. Gorbachev đã thú nhận với bà không hề có bất cứ một
quỹ nào của Xô viết tài trợ cho công nhân mỏ Anh chống lại bà. Không
chắc chắn quỹ này có số tiền đó hay không.
Một số tác giả băn khoăn liệu Gorbachev có đóng góp một phần trong nỗ
lực khôi phục luật và trật tự bằng cách tách riêng văn phòng tổng thống với
nội các của mình. Nội các của ông, được trao một số đặc quyền, sẽ đưa ra
một vài cách thức mạnh mẽ để cứu lấy nhà nước Xô viết. Michael Urban,
Vyacheslav Igrunov và Sergei Mitrokhin, The Rebirth of Politics in Russia
(Sự tái sinh các nền chính trị ở nước Nga), (Cambridge, NXB ĐH
Cambridge, 1997), tr.247; Yu. Burtin, Demokraticheskaya Rossiya (Nước
Nga dân chủ hóa), 3/11/1991.
1. Elizabeth I (1533-1603): là Nữ hoàng Anh và Nữ hoàng Ireland từ 1558
cho đến khi băng hà. Bà trở nên bất tử với tên Faerie Queen trong thiên sử
thi cùng tên của Edmund Spenser.
2. Hồng Y Richelieu (1585-1642): không là vua, mà là thủ tướng trong thời
kỳ làm vua của người con trai bất tài của vua Henri IV là vua Louis 13. Từ
năm 1624-1642, Hồng y Richelieu đã cai trị nước Pháp theo ý mình và
muốn củng cố vương quyền trung ương và bành trướng các ảnh hưởng của
nước Pháp qua khắp châu Âu.
3. David Lloyd George (1916-1922): là Thủ tướng Anh nhiệm kỳ 1916-
1922.