những thử nghiệm như vậy có thể được tự động hóa. Tuy nhiên, việc xác
định “điều tốt nhất” khó tự động hóa hơn. Bởi vì số lượng người tìm việc
làm phụ thuộc vào số lượng quảng cáo công việc và ngược lại, thị trường
tổng thể chỉ có một quan sát. Nếu làm sai, ZipRecruiter có thể không kinh
doanh được và sẽ không có cơ hội thứ hai. Vậy nên, họ đã mô hình hóa
doanh nghiệp của mình. Họ khám phá những hệ quả của việc tối đa hóa lợi
nhuận ngắn hạn và so sánh nó với những mô hình tương tự với mục tiêu là
tối đa hóa lợi nhuận dài hạn. Không có dữ liệu, những kết quả mô hình và
kỹ thuật chức năng phần thưởng vẫn sẽ được thực hiện của con người -
những người có tay nghề cao.
Mô hình hóa cũng giúp phe Đồng minh ném bom trong Thế chiến II. Các
kỹ sư nhận ra rằng họ có thể trang bị những máy bay ném bom tốt hơn. Cụ
thể, họ có thể thêm khối lượng vào máy bay mà không làm ảnh hưởng đến
máy bay. Câu hỏi đặt ra là điểm cụ thể nào cần bảo vệ. Họ có thể thử
nghiệm, nhưng như vậy rất tốn kém. Những phi công có thể sẽ mất mạng.
Với mỗi chiếc máy bay ném bom trở về sau những trận ném bom trên khắp
nước Đức, các kỹ sư có thể nhìn thấy nơi chúng bị bắn bởi đạn diệt máy
bay. Các lỗ đạn trên thân máy bay là dữ liệu. Nhưng đây liệu có phải là
những nơi cần để bảo vệ?
Họ hỏi nhà thống kê Abraham Wald để đánh giá vấn đề này. Sau khi suy
nghĩ và tính toán cẩn thận, ông nói với họ cần bảo vệ máy bay ở những nơi
không có lỗ đạn. Liệu ông có nhầm không? Ý ông không phải là cần bảo vệ
những khu vực có lỗ đạn sao? Không. Ông có một mô hình quá trình tạo ra
dữ liệu. Ông nhận ra rằng một vài máy bay ném bom không trở về từ trận
ném bom và phỏng đoán rằng chúng bị bắn trúng ở những chỗ hiểm.
Ngược lại, những máy bay trở về bị bắn trúng ở những chỗ không gây nguy
hiểm. Với cái nhìn này, các kỹ sư không quân đã tăng giáp ở những nơi
không có lỗ đạn, và những máy bay này đã được bảo vệ tốt hơn.
6
Cái nhìn
sâu sắc của Wald về những dữ liệu còn thiếu đòi hỏi sự hiểu biết về nơi bắt
nguồn của dữ liệu; do vấn đề này chưa từng phát sinh, các kỹ sư không có