quả địa cầu, chư thiên ở các cảnh trời khác, và chư vị thần rắn (nāga) – có
khi nhiều nhóm khác nhau trong một đêm. Trong trường hợp đông khách
như vậy, Ngài phải lên lịch cho họ. Hiếm có đêm mà không có nhóm khách
nào đến thăm. Khi ở gần làng hay gần thị trấn thì có đông người hơn, và
Ngài tiếp họ vào buổi chiều hoặc lúc tối. Rồi Ngài dạy chư vị tỳ khưu và
sāmaṇera đệ tử đã theo Ngài để được hướng dẫn và dạy dỗ.
Những thời Pháp cho người và chư thiên So sánh
khả năng lĩnh hội
Về phương diện thuyết giảng, Ngài Acharn nói rằng có sự khác biệt đáng
kể giữa người và chư thiên. Các vị Trời hình như có khả năng lĩnh hội giáo
huấn dễ dàng hơn người. Trước mặt vị thầy, họ cũng tỏ ra tôn kính sâu đậm
hơn. Không bao giờ có vị nào sinh tâm bất thiện đối với Ngài. Mỗi cử chỉ
của họ đều thật thanh nhã, dễ chịu. Dù lúc đến, lúc thính Pháp hay khi ra đi,
bao giờ họ cũng yên lặng, trầm tĩnh, khoan thai và dịu hiền.
Mỉa mai thay, thuyết Pháp cho người trong cảnh người nghe, đôi khi trở
thành khó khăn, cho cả Ngài và người nghe. Dù lặp đi lặp lại và giảng bằng
nhiều cách khác nhau, họ vẫn lãnh hội rất ít. Và ngoài tình trạng kém khả
năng lãnh hội, trong vài trường hợp, họ còn tỏ ra xem thường và đôi khi phê
bình chỉ trích.
“Thời Pháp này nói gì? Tôi không hiểu đầu đuôi gì cả”, họ nghĩ vậy, “Tôi
biết một vị tỳ khưu khác còn giảng hay hơn vị này nhiều.”
Có những người khác tự kiêu, tự so sánh mình với Ngài, “Trước kia tôi
hành còn hơn như vậy, hơn vậy nhiều”, họ nghĩ như thế. “Thường ngày
trong khi tôi giảng Pháp, người nghe cười đến đau bụng thôi. Không bao giờ
có ai buồn ngủ! Trong những thời Pháp vấn đáp (có hai vị tỳ khưu luân
phiên, vị này hỏi vị kia giải đáp, rồi vị kia vấn vị này đáp) còn vui hơn nữa.
Thính giả của chúng tôi không ngừng vui thích hả hê cười từ đầu chí cuối.”
Và cũng có người nghĩ, “Người ta nói rằng Ngài Acharn có thể đọc được
tâm của kẻ khác. Tại sao Ngài không biết ta đang nghĩ gì ngay trong giờ