CHƯƠNG 1
“D
ã ngoa ̣i” - hai từ nghe hay nhất trong tiếng Anh.
Lớp tôi sẽ đi dã ngoa ̣i ở vườn thú trong Lâm Viên.
Tôi đã từng tới vườn thú này vài lần rồi. Và vı̀ me ̣ của Cassie là bác sı̃
thú y trưởng ở đó, nên tôi có thể vô vườn thú bất cứ lúc nào tôi muốn.
Nhưng cứ đươ ̣c đi dã ngoa ̣i là khoái rồi, khoái gấp va ̣n lần ngồi lı̀ trên ghế
giương mắt nhı̀n bảng đen ấy chứ… Trước đây có lần bo ̣n tôi đươ ̣c tới
thăm mô ̣t xưởng làm bánh mı̀ và bánh kem. Người ta đã chẳng cho chúng
tôi chiếc bánh nào, nhưng chúng tôi chẳng lấy đó làm buồn. Bởi vı̀ chı̉ cần
đươ ̣c ra ngoài, đi đây đi đó, nhı̀n ngó những điều mới mẻ, vâ ̣y là tu ̣i tôi
sướng rơn rồi…
Bo ̣n tôi đang ở trong mô ̣t khu trưng bày rô ̣ng lớn có mái che - mô ̣t cái
vòm kiếng khổng lồ che trên những bãi thả thú khác nhau. Vài đứa ba ̣n tôi
bước đi dưới chân mô ̣t ngo ̣n đồi thoai thoải, theo mô ̣t con đường mòn uốn
lươ ̣n giữa những bãi thả báo, rùa, rồng Komodo và trăn - tất cả những loài
vâ ̣t không thể sống đươ ̣c ở ngoài trời la ̣nh giá.
Tôi đang thı́ch thú hút mô ̣t lon Coca và nhı̀n ngó quanh quẩn. “Nè, bồ có
thấy con trăn thiê ̣t là chán ngắt hông?” tôi hỏi Cassie. “Nó chı̉ biết mỗi
viê ̣c là nằm chần dần ra đó. À, mà có khi nó là đồ dỏm hổng chừng, dám
bằng như ̣a lắm đó… Lũ báo thı̀ chắc là thiê ̣t rồi. Chúng di chuyển lung
tung, că ̣p mắt dữ thấy ghê. Nhưng mấy con trăn thı̀…”
Tôi và Cassie tựa mı̀nh vô cái lan can ở phı́a trên vũng thả cá sấu. Phân
nửa lớp đã đi lang bang phı́a đằng trước. Còn phân nửa vẫn lẽo đẽo phı́a
sau. Bây giờ hai đứa tôi đang đứng lẫn lô ̣n với mô ̣t lớp nhóc vườn trẻ đang
ồn ào la hét, nhóc nào cũng mang bảng tên trên ngực áo.
Đúng ngay trước mă ̣t tôi, cách chưa tới ba mét, mô ̣t thằng nhóc ngốc
nghếch đang leo lên lan can. “Ê! Ê! Xuống đi nhóc tı̀…”
Đô ̣t nhiên thằng bé vắt chân qua lan can.
Và rớt xuống vũng cá sấu.