XIV
Hôm sau, khi ngủ dậy, nàng định bụng viết thư trả lời Rôbe. Trời mưa. Nàng
uể oải nghe mưa rơi tí tách. Chu đáo và tinh tế, Vivian Ben đã đặt lên mặt bàn
cả một thếp giấy trang nhã, tờ thì trắng mịn như giấy trong Kinh thánh, tờ lại
phơn phớt tím lấm chấm màu tro bạc; những chiếc ngòi bút bằng xenluloit
trắng và nhẹ phải dùng như dùng bút vẽ; một thứ mực óng ánh, khi viết lên mặt
giấy thì có cả màu thanh thiên lẫn màu vàng rực. Têredơ bực mình với những
thứ tinh tế và cầu kỳ ấy, chúng không thích hợp với một lá thư mà nàng muốn
viết đơn sơ và kín đáo. Nhìn thấy từ “bạn” dùng để gọi Rôbe trong dòng thư
đầu tiên lấp lánh trên mặt giấy bạc và biến thành màu xanh biếc như màu lông
cổ chim bồ câu và màu trắng lóng lánh như màu xà cừ, nàng nở một nụ cười
nửa miệng. Những câu đầu tiên, nàng viết một cách khó khăn. Nàng viết vội
phần sau, nói nhiều về Vivian Ben và về ông hoàng Anbectinenli, chút ít về
Sulet, nói nàng có gặp Đơsactrơ ghé qua Phlôrăngx. Nàng ca ngợi mấy bức
tranh ở các viện bảo tàng, nhưng viết không mấy hào hứng và chỉ cốt lấp cho
đầy trang giấy. Nàng biết Rôbe không ưa thích gì hội họa và anh chỉ khen độc
một bức tranh nhỏ vẽ một kỵ binh của họa sĩ Đơtay
mua ở hiệu Gupin. Nàng
nhớ lại bức vẽ kỵ binh ấy một hôm anh kiêu hãnh chỉ cho nàng xem, trong
buồng ngủ, bên cạnh tấm gương, dưới các bức chân dung của gia đình. Tất cả
cái đó, trong ký ức xa xăm, hiện ra tủn mủn, chán ngấy, buồn bã. Kết thúc bức
thư là những từ ngữ thân ái, và dịu dàng không có gì là giả tạo. Bởi vì nàng
chưa bao giờ thực sự cảm thấy yên tĩnh và khoan dung đến mức này đối với
Rôbe. Viết bốn trang thư, nhưng nàng chẳng nói bao nhiêu và lại càng để cho
anh hiểu ít hơn. Nàng chỉ bảo nàng có thể ở lại một tháng ở Phlôrăngx, không
khí ở đây rất tốt với đối với nàng. Nàng viết tiếp thư cho bố, cho chồng và cho
quận chúa Xơniavin. Nàng cầm thư bước xuống thang gác. Bước vào tiền
sảnh, nàng bỏ ba bức lên chiếc khay bạc dùng để đựng thư từ đưa đi bưu điện.
Nghi ngại cặp mắt hay dò xét của bà Macmê, nàng chuồi vào trong ví xách tay