Các giá trị khám phá của học thuyết Jung
Chúng ta đã lưu ý một số nghiên cứu trong các khái niệm về quan điểm
và hoạt động của Jung đã nhân được sự cổ vũ. Ngoài ra, Jung đã truyền
cảm hứng cho một số cá triết gia để mở rộng, thay đổi, và cho biết thêm chi
tiết về các khía cạnh khác nhau trong học thuyết của ông. Thí dụ như
Wickes (1948), Goldbrunner (1956), Progoff (1953, 1956), G. Adler
(1948), và Read (1945). Học thuyết này cũng được sử dụng làm cơ sở để
giải thích các bài trắc nghiệm xạ ảnh, gồm có Rorschach (Mindess (1955)
và các bài trắc nghiệm chủ đề (Spiegelman 1955; Strauss 1954). Ngoài ra,
nó còn ảnh hưởng đến nhà sử học Arnold Toynbee (1956) và có ảnh hưởng
rất đáng kể đến tư tưởng tôn giáo hiện đại (Strunk 1956). Một dấu hiện ảnh
hưởng thêm nữa của Jung là Tập san Tâm lý học Phân tích được dành riêng
cho sự xúc tiến tâm lý học của Jung.
Ngoài những ảnh hưởng tư tưởng khám phá trực tiếp này, học thuyết của
Jung có thể ảnh hưởng tế nhị hơn nhưng có sức thuyết phục rộng hơn trong
các lĩnh vực tâm lý khác. Khái niệm hóa của Jung về động cơ cứu cánh –
nỗ lực định hướng mục tiêu nhằm đạt được cá tính hội nhập qua sự tự thể
hiện đầy đủ tiềm năng của bản thân – chắc chắn nằm trong số những phát
biểu có hệ thống đầu tiên về cả bản thân (như là trung tâm đối với nhân
cách) lẫn động cơ cứu cánh (như là một khía cạnh của hành vi con người).
Các ý niệm này đã được hợp nhất thành một nền tảng và trung tâm đối với
các học thuyết của trường phái hiện tượng học – nhân văn học, tiêu biểu
cho trường phái này là Carl Rogers và Abraham Maslow (Chương 7).
Dù những ảnh hưởng thuộc phương pháp khám phá, và ảnh hưởng có thể
xảy ra đã từng được lưu ý trước đây, nhưng sẽ hết sức cường điệu khi nói
rằng học thuyết của Jung đã được chấp nhận rộng rãi trong tâm lý học.
Hoàn toàn trái lại. Ngoài một nhó tương đối nhỏ những người vốn tự xem
mình như là những nhà tâm lý học phân tích, giới tâm lý học thường bác bỏ
học thuyết của Jung vì nó quá siêu hình, quá lệ thuộc vào các khái niệm
phổ quát, và không tuân theo sự kiểm chứng thực nghiệm. Chúng ta thấy
những dấu hiệu bác bỏ này trong một số ít chỗ được phân định cho học