thuyết của Jung, trong phần lớn lịch sử của tâm lý học và tâm thần học, và
ít bài trong các xuất bản phẩm (trừ Tập san Tâm lý học Phân tích) được
dành hết cho các cuộc thảo luận về những quan niệm của Jung. Và trên
thực tế, học thuyết này có ít nhà phê bình, ngoại trừ các nhà phân tâm học
thuộc trường phái Freud ra (có lẽ đó là một dấu hiệu cho thấy thiếu sự quan
tâm).
Trong bối cảnh của một số phê bình nghiêm túc nhưng không được chấp
nhận rộng rãi, để đánh giá đúng sự đóng góp của Jung, chúng ta phải xem
xét các phẩm chất duy nhất mạnh mẽ của nó. Jung đã bắt đầu và tiếp tục
các tác phẩm của mình như là một người sẵn sàng bị ruồng bỏ khỏi xu
hướng chủ đạo của cả tâm lý học lẫn tâm thần học. Một bên là người khổng
lồ Freud, người sáng lập tâm lý học phân tích, bảo vệ một cách mạnh mẽ và
thành công pháo đài học thuyết của mình, chống lại tất cả những sự công
kích, kể cả sự công kích có Jung tham dự. Một bên là tâm sinh lý học thực
nghiệm Đức được củng cố và truyền thống thuộc thuyết hành vi Mỹ đang
phát triển. Trí thông minh động vật của E. L. Thorndikes xuất hiện năm
1898 trong khi Jung vẫn còn là một sinh viên y khoa ở Zurich. Năm 1902,
trong khi Jung công bố luận án y khoa của mình, Robert M. Yerkes đảm
trách phòng thí nghiệm tâm lý học so sánh ở Harvard; một năm sau, J. B.
Watson hoàn tất luận án của mình về sự trưởng thành hệ thần kinh và tâm
lý của chuột bạch; và năm 1904 B. F. Skinner chào đời. Do đó, định hướng
chủ nghĩa hành vi khách quan đã bắt đầu vào lúc Jung khởi đầu sự nghiệp
của mình. Và năm 1913, hai năm trước khi Jung công bố Học thuyết về
Tâm lý học phân tích, Watson đã phát triển hoàn thiện chủ nghĩa hành vi
với bài của ông trong Tạp chí Tâm lý học, “Tâm lý học như là người theo
thuyết hành vi quan sát nó”.
Jung cứ một mực ý thức hoàn toàn – có lẽ đau đớn là thế – về vị trí hầu
như dị giáo của mình bên ngoài các học thuyết, về phân tâm học của Freud
lẫn thuyết hành vi của Watson. Ông đã cương quyết phát triển đường lối tư
duy của riêng mình, không chịu đầu hàng trước những công kích hay trừng
phạt của những người phê bình ông. Kết quả là, một kiệt tác sáng tạo, nổi