QUAN NIỆM CỦA FREUD VỀ CHỨNG NHIỄU TÂM
Dù thuyết Freud là một học thuyết tổng quát về tính cách, sự quan tâm
lâm sàng trung tâm của ông nằm trong cách điều trị những bệnh nhân bị
nhiễu tâm, và học thuyết của ông phát triển phần lớn từ những quan sát trên
những bệnh nhân đó.
Thuật ngữ nhiễu tâm biểu thị sự đa dạng rộng rãi của những khuôn mẫu
hành vi, và người ta không đồng ý hoàn toàn về ý nghĩa của nó. Nó là một
rối loạn căn bản, trong đó cá nhân trải qua những mức độ cao của nỗi lo âu
tiếp nối hoặc tái diễn và nuôi dưỡng những khuôn mẫu hành vi tự vệ để làm
giảm thiểu sự lo âu này. Kết quả là, một kiểu sống không phù hợp, với
những triệu chứng trải dài từ sự kinh sợ, lo âu đến thất vọng, ám ảnh sợ,
thúc ép, và chứng cuồng loạn.
Trong học thuyết Freud, sự xung đột nghiêm trọng giữa bản ngã và siêu
ngã dẫn đến chứng nhiễu tâm do một sự xung đột luôn luôn bắt đầu vào lúc
khởi đầu thời thơ ấu. Thật ra, Freud chủ trương rằng những chứng loạn thần
kinh căn bản bị mắc phải chỉ trong suốt thời thơ ấu, mặc dù triệu chứng
thực sự có thể không xuất hiện cho đến thời trưởng thành.
Dù những chứng rối loạn thần kinh được xem là rối loạn của bản ngã,
chúng bắt đầu với những hoạt động trong bản năng vô thức. Những bốc
đồng hung hăng quyền năng, hoặc phổ biến hơn những bốc đồng tính dục
bắt nguồn từ bản ngã săn đuổi sự thỏa mãn lập tức và trực tiếp. Những bốc
đồng này biểu lộ có thể bị trừng phạt và từ đó xuất hiện nỗi lo âu, và đứa
trẻ có thể trở nên sợ hãi tình yêu của cha mẹ sẽ mất đi nếu những bốc đồng
này tiếp tục được phóng thích. Vì vậy, cách tự vệ của bản ngã được đem
vào áp dụng để đàn áp mạnh mẽ những ham muốn bản năng vô thức nguy
hiểm. Nếu không được phép phóng thích, những bốc đồng bản năng vô
thức tiềm ẩn trở nên mạnh mẽ không ngừng và vô cùng khó khăn để đàn
áp. Một dạng của tình huống nồi áp suất được hình thành bằng cách năng
lượng tinh thần của những xung động bản năng liên tục gây áp lực để xuất
hiện, trong lúc bản ngã sử dụng năng lượng tự vệ để “giữ cho nắp đậy kín”.