thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế
nước suy yếu, Trẫm thì già nua. Sau khi Trẫm chết, Quan gia nếu giúp
được thì giúp, nếu hèn kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi
vua”. Nghe vậy, Quý Ly vội bỏ mũ, dập đầu khóc lóc từ tạ, chỉ trời
vạch đất mà thề: “Nếu thần không biết dốc lòng trung, hết sức giúp
Quan gia để truyền đến con cháu về sau thì trời sẽ ghét bỏ thần...”.
Quý Ly lại nói: “Lúc Linh Đức vương (tức Đế Hiện - TG) làm điều
thất đức, nếu không nhờ có lệnh Bệ hạ thì thần đã ngậm cười dưới đất
rồi, còn đâu được tới ngày nay! Thần dù nát thịt tan xương cũng chưa
hề báo đáp lấy một trong muôn phần ơn đức đó, dám đâu lại có lòng
khác!”
.
Hoàn cảnh ấy, sử thần Ngô Sĩ Liên đã có nhận xét như sau: “Nghệ
Tông tính trời hòa nhã, giữ lòng kính cẩn, lo sợ. Nhưng uy vũ không
đủ để đánh lui giặc ngoài, sáng suốt không đủ để phân biệt lời gièm,
có một Nguyên Đán mà không biết dùng, lại giao việc nước cho người
họ ngoại, khiến xã tắc nhà Trần đi đến sụp đổ, thực là “đằng trước có
kẻ siễm nịnh mà không thấy, đằng sau có giặc cướp mà không hay”
.
Tháng 11 năm Giáp Tuất (1394), Thượng hoàng Trần Nghệ Tông
mất.
Sang năm 1395, Quý Ly lên làm Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình
chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc Đại vương. Đến đây
Quý Ly đã giữ chức tột đỉnh trong triều, đeo lân phù vàng. Tháng 4,
Quý Ly vào ở nhà bên hữu Trung thư sảnh và Ngự sử đài, gọi là Họa
Lư (là nhà ở của đại thần thân cận vua) để dạy vua Thuận Tông học và
tự xưng là Phụ chính cai giáo Hoàng đế (nghĩa là giúp vua trị nước
kiêm việc dạy bảo vua). Quyền uy của Quý Ly ngày càng thêm rộng,
khuynh loát cả triều đình. “Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, việc nước
trong tay quyền thần”
.
5. Năm Bính Tý (1396), Quý Ly ép vua Thuận Tông dời đô về
Thanh Hóa (Tây Đô) rồi lập mưu cho đạo sĩ Nguyễn Khánh xui vua đi
tu. Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử An mới 3 tuổi rồi lên