Ở nội ngoại vi Hà Nội, có tới 20 đội dân dũng rải rác ở các huyện
Hoài Đức, Thanh Oai... do Tri huyện Trương Hữu Quang và nhiều thân
hào, sĩ phu cầm đầu.
Ở Nam Định có Đề đốc Tạ Hiện, Án sát Phạm Vụ Mẫn, Tri phủ Kiến
Xương Hoàng Văn Hòe... Ở Cao Bằng, Thái Nguyên có Tiễu phủ sứ Lương
Tuấn Tú mộ quân chống Pháp. Ở Sơn Tây, Bắc Ninh, quân triều đình vẫn
không triệt bãi, mà ráo riết chuẩn bị chiến đấu. Quân Thanh đã xuống sát
tỉnh thành Bắc Ninh, kéo một phần sang Hải Dương, Quảng Yên hỗ trợ
quân Nam...
--Nguồn: ire--ad.vn
Cuốcbê không thể đối phó cùng lúc với sự nổi dậy nhiều nơi như trên.
Ông ra lệnh thiết quân luật gắt gao ở các tỉnh thành Hà Nội, Nam Định,
Ninh Bình, Hải Dương... Ông nhờ Khâm sứ Sampô đòi vua Hiệp Hòa cho
quan Nam các tỉnh đánh dân dũng mà ông gọi là "cướp". Ở Hà Nội. Đề đốc
Lê Văn Thái có lính Pháp hộ vệ đến một làng thuộc Hoài Đức chiêu dụ dân
chúng chống "cướp". Dân không nghe, Thái hô lính bắn. Dân chống lại,
Thái chết tại trận.
Những ngày này, Khâm sai Nguyễn Trọng Hợp ở Hà Nội hai ba lần
yêu cầu Pháp trả bốn tỉnh thành cho quan Nam cai quản, Hácmăng không
trả lời. Ông cũng đã hai ba lần gặp Viêm, Đản, giục họ rút quân về kinh. Họ
nghe mà không làm. Ông càng không thể chiêu an để dập tắt các cuộc nổi
dậy chống Pháp ở nhiều nơi. Khi Pháp chiếm Ninh Bình, ông liên hệ với
Tuần phủ Tôn Thất Úy để bàn việc gọi là "nhận thành". Úy không nhận, vì
Công sứ Pháp đã đóng đồn ở núi Dục Thúy làm chủ tỉnh. Úy cùng viên
Lãnh binh đem sổ sách lánh ra sơn phòng chống Pháp.
Trọng Hợp càng không thể can thiệp khi Pháp bắt Tuần phủ Hải
Dương Nguyễn Văn Phong, Tuần phủ Quảng Yên Hoàng Vĩ, ngờ là có liên
lạc với Hoàng Tá Viêm; và khi Pháp bắn chết Tuần phủ Hưng Yên Nguyễn