Anh em thoải mái đố hết vốn, Ấm Đoan liền đọc bài thơ vừa nghĩ
được trong lúc đi đường:
Nghĩa quân cứu nước, Tết không về
Mình nhớ nhà không, tớ nhớ ghê!
Mừng tuổi, chè xanh hơi ám khói
Đón xuân, rượu sắn có mùi khê
Chim núi hót nhiều mà chẳng chán
Hoa rừng thơm mãi vẫn còn mê
Mong thấy giặc thua trơ mắt ếch
Quân mình thắng trận vểnh râu trê.
Tết nghèo mà vẫn vui khi Đoan đến. Anh em muốn Đoan vui thêm với
họ. Nhưng Đoan còn phải đến với những người khác. Sau đó, Đoan qua
thêm một cánh rừng, thăm Tiên Động, căn cứ cũ của cha. Được nghe khi
Pháp đánh thành Hưng Hóa, cha thấy nguy cơ mất thành, toan ở lại chết
cùng thành. Nhưng quan viên tả hữu và tướng Lưu Vĩnh Phúc khuyên cha
rút quân ra ngoài, để tiếp tục đánh giặc. Cha nghe và ra lập căn cứ ở đây,
hội tụ nghĩa quân chống Pháp, trước cả khi có tờ chiếu Cần Vương của vua
Hàm Nghi. Vì vậy khi vua ra sơn phòng đã phong cha làm Khâm sai Đại
thần, sung Hiệp thống quân vụ Bắc kỳ, nắm cả quyền hành chính và quân
sự; được phép chọn người giao chức việc, quan văn từ Tham tán, quan võ
từ Đề đốc trở xuống. Đốc Ngữ, Đề Kiều, Đề Hoan là những người được
cha giao chức vụ...
Đoan nhìn sông, ngắm núi, tưởng như bóng cha còn qua lại đây kia.
Đoan ngồi trên phiến đá, nghe nói là nơi cha từng ngồi bàn việc quân với