Thế là biến thang Lục Quân, đổi Bạch Truật thế Kê Nội Kim, thêm Đông
Quỳ Tử, Hổ Phách để vừa bổ huyết vừa trị sạn Thận bên phải cho thêm sức.
Về theo dõi, điều dưỡng vẫn như trước.
Đến ngày 5/3/1984, bệnh nhân trở lại. Về triệu chứng vẫn không chi lạ,
chỉ thấy mạch tượng phần huyết kém, tất cả 6 bộ mạch đều biến chuyển
nhưng chỉ có hữu Thốn nghịch độ nhỏ bớt thì nhanh, bớt nghịch thì chậm, tả
Thốn còn hơi uất, điều này quan hệ đến cá tính hơi lo và mơ buồn của người
bệnh, nên đổi toa như sau:
Đơn Sâm 5 chỉ
Kê Nội Kim sao 1,5 lượng
Trần Bì 2 chỉ
Bạch Thược 5 chỉ
Viễn Chí 2 chỉ
Phục Linh 5 chỉ
Cam Thảo 3 chỉ
Đông Quỳ Tử sao 5 chỉ
Xuyên Quy 5 chỉ
Hoài Ngưu Tất 5 chỉ
Hợp lại thành thuốc bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 2,5 chỉ với nước
ấm.
Giải thích dược lý: Thế là vẫn nguyên tắc Lục Quân như 2 thang trước
nhưng bỏ Bán Hạ, thêm Bạch Thược, Đương Quy để tăng cường bổ huyết,
thêm Viễn Chí để thông các khiếu trong Tim. Thêm Hoài Ngưu Tất cho giãn
nở các ống đường dẫn tiểu để tẩy hết sạn. Vậy là vừa bổ huyết, vừa tiêu sạn,
vừa trơn nhuận, vừa mở cửa cho sạn ra. Đồng thời dặn bệnh nhân uống hết
thuốc trở lại khám.
Đến ngày 12/3/1984 bệnh nhân trở lại khám, nhìn chung thấy sắc diện có
hơi gầy một chút. Về chứng thì đại tiện rất thông, miệng không còn lạt. Về