Quế Chi Tiêm 2 chỉ
Hoài Sơn 8 chỉ
Trạch Tả 5 chỉ
Phục Linh 3 chỉ
Sanh Long Cốt 2,5 chỉ
Hắc Phụ Tử 3 chỉ
Cách dùng: Cho nước xấp thuốc sắc chậm còn 7 phân. Nước nhì cũng
sắc như thế còn 6 phân. Hòa chung, chia đôi, uống lúc đói sáng sớm và tối
trước khi đi ngủ. Cách một ngày uống 1 thang. Uống liên tiếp 2 thang trở lại
khám.
Giải thích dược lý: Đây là phương Bát Vị Thận Khí thêm Long Cốt, Mẫu
Lệ. Về phân lượng tùy theo hiện tượng mạch mà đặt để. Chỉ có 2 vị thêm
vào cần phải biết rõ, ngoài ra đã có nói qua.
Long Cốt: Là một thứ khoáng sản, hóa chất của thiên nhiên trong núi
rừng, có hình giống bộ xương rồng nên gọi là Long Cốt, đập ra thấy giống
hình xương, có màu trắng. Vị hơi ngọt, mặn, chát, béo. Nhăn vào răng thấy
có hơi rít dính, tánh ấm. Có công năng định tâm, trấn thần, thu liễm thần
hồn. Cho nên trường hợp mạch tả Thốn tán, tâm không định rất cần.
Mẫu Lệ: Là vỏ con hào dưới biển. Khi còn sống, phía trong có màu như
ốc xà cừ. Vị mặn, tánh lạnh. Có công năng phá mạch kết cứng ở Gan Thận.
Nhưng không phải tướng kết cứng của bệnh trừng hà. Ngoài ra còn có công
năng thu liễm nóng nổi bốc lên cho quy về Thận. Dùng sống thì tư âm, dùng
nung chín thì thêm chất vôi, có thể dùng để chữa bệnh loét bao tử.
Đến ngày 23/5/1984 tới khám lại, thấy toàn bộ mạch chứng 10 phần bớt
đi 4 phần, bèn tùy theo sự biến chuyển của từng bộ mạch, vẫn dùng y
phương trước mà xê dịch phân lượng như sau:
Quế Chi Tiêm thêm 5 phân tức là 2,5 chỉ
Hắc Phụ Tử thêm 5 phân tức là 3,5 chỉ
Còn tất cả đều để nguyên. Y theo cách ấy uống tiếp 2 thang.