Nam Sài Hồ 1,5 chỉ
Đơn Bì 2,5 chỉ
Phục Linh 2,5 chỉ
Sao Phấn Thảo 1,5 chỉ
Trần Bì 1,5 chỉ
Xuyên Khung 1,5 chỉ
Thủy Xương Bồ sao 7 phân
Uất Kim 3 chỉ
Tang Chi 2,5 chỉ
Cách dùng: 2,5 chén nước sắc còn 7 phân, uống ấm lúc đói hoặc trước
khi đi ngủ. Sắc 2 nước. Cách ngày uống 1 thang, liên tiếp 2 thang.
Giải thích dược lý: Vẫn trong nguyên tắc Tiêu Dao, chỉ vì hữu Thốn, hữu
Quan thiếu nên bỏ Bán Hạ dùng Đản Sâm nâng đỡ. Vì khiếu của Tim có chỗ
không thông, mạch tả Thốn hư sắc uất, phải cần có Khung Quy kèm Thủy
Xương Bồ, Uất Kim để khai thông nâng đỡ. Còn Tang Chi là cành dâu, bất
quá để giúp Sài Hồ tán nhiệt ở Gan, hợp lại thành tác dụng bổ chánh, khai
uất, tan đàm chớ không có chi khác.
Đến ngày 26/7/1982 bệnh nhân đến khám lại. Thấy mạch tả Thốn tuy bớt
hư mà còn uất, tả Quan hơi cứng nhiều hơn, tả Xích không đáng kể, hữu
Thốn có hơi đàm nghịch 1 tí. Hữu Quan hơi sắc, trệ. Hữu Xích không thành
vấn đề. Nhìn chung 6 bộ mạch thấy tả Thốn, tả Quan rất uất nghịch rõ nhất.
Còn hữu Thốn, hữu Quan thấy uất trệ tuy ít nhưng biến sanh đàm, nên hữu
Thốn trong hiện tượng hơi nghịch mà cũng hơi tán. Mạch tuy không mau
nhưng cảm thấy cái gì sắp đến trong người bệnh, mặc dù ở vùng Tử Cung
bình yên, nhưng Gan còn hơi cứng, bướu cổ lui một cách chậm chạp, nên
khuyên bệnh nhân hãy cố gắng điều chỉnh mặt tinh thần, đừng để giận dỗi,
uất ức làm chủ. Bệnh nhân tuy kín đáo không nói tuột ra, nhưng vẫn chấp
nhận là tinh thần không hoàn toàn yên ổn. Bèn đổi toa như sau:
Sao Đan Sâm 3 chỉ