Berkeley” tổ chức và dựa vào sự liên kết chặt chẽ với kinh tế thế giới, với quy
định của pháp luật, với những thông lệ kinh tế cơ bản vững chắc. Một được định
hướng tập trung vào các nguồn lực nhà nước to lớn, các mối quan hệ cá nhân và
luật lệ riêng của Suharto. Hai nền kinh tế đối kháng tự nhiên với nhau. Những
biện pháp bãi bỏ các quy định cấm, khuyến khích cạnh tranh và ưu tiên cho đầu
tư nước ngoài mà “Nhóm Mafia Berkeley” cổ súy đã ăn dần ăn mòn nhiều đặc
quyền của nhóm “thân hữu” và làm suy yếu dần sự che chở các doanh nghiệp
nhà nước. Khi nhóm “thân hữu” thúc ép Suharto phải bảo vệ cho các vị trí của
họ, họ đã làm què quặt nhiều nỗ lực cải cách kinh tế của các nhà kỹ trị. Đó là
một vòng luẩn quẩn tự tiêu diệt mình mà chẳng bao lâu sau đã chứng minh bằng
một kết cục thê thảm.
Phỏng vấn Ali Wardhana của tác giả.
Radius Prawiro. Cuộc chiến vì phát triển kinh tế của Indonesia: sự
thực dụng trong hành động. Kuala Lumpur: NXB Oxford, 1998, trang 264.
Những chi tiết về cuộc cải cách hải quan được rút ra từ cuộc phỏng
vấn Ali Wardhana của tác giả và từ Radius, trang 265.
Giống như nhiều người Indonesia, Suharto chỉ mỗi một tên gọi. Tên
của ông còn được viết là Soeharto.
[5] Abdulgani-Knapp, Retnowati. Soeharto: Cuộc đời và di sản của tổng
thống thứ hai của Indonesia. Singapore: Marshall Cavendish, 2007, trang 300.
Soeharto. Suy nghĩ, lời nói và hành động của tôi. Dịch bởi Sumadi.
Jakarta: Citra Lamtoro Gung Persada, 1991, trang 252.