sự độc quyền nhập khẩu nhựa tai hại mà trong đó hai người con trai của Suharto
cũng là đối tác.
Trong một nỗ lực thu hút thêm vốn nước ngoài, “Nhóm
Mafia Berkeley” cũng nâng cao mức trần về sở hữu nước ngoài trong các doanh
nghiệp nội địa, đặc biệt là trong các ngành xuất khẩu; miễn thuế trong một thời
gian nhất định cho các công ty nước ngoài và cho phép họ tiếp cận các chương
trình tín dụng đặc biệt; dỡ bỏ những hạn chế về đầu tư nước ngoài trong một số
khu vực cụ thể.
Radius viết: “Phong trào bãi bỏ quy định của nhóm đã kích
thích tinh hoa phát tiết vừa mang tính cách mạng lại vừa mang tính gần như là
thần bí.”
Những biện pháp cải cách hiệu quả đến kinh ngạc. Từ năm 1985 đến năm
1996, xuất khẩu phi dầu mỏ tăng vọt 650%.
Đầu tư nước ngoài trong năm
1996 cao gấp 24 lần so với trước đó 10 năm.
Tư tưởng thị trường tự do của
“Nhóm Mafia Berkeley” một lần nữa lại chứng minh là đúng đắn.
Tuy nhiên, “Nhóm Mafia Berkeley” thực sự chẳng nhận được nhiều lời cảm
ơn. Nỗ lực tự do hóa thị trường của họ là bài ca khải hoàn hùng tráng cuối cùng
trước khi tắt hẳn. Khi nội các mới thành lập vào năm 1993, nhiều nhà kỹ trị,
trong đó có Radius, đã bị thay thế và nhóm đã để mất vài vị trí truyền thống của
mình vào tay những người ủng hộ Habibie.
Lực lượng theo dân tộc chủ
nghĩa và nhóm “thân hữu” cuối cùng đã giành thế thượng phong.
Chiến thắng lẫy lừng của “Nhóm Mafia Berkeley” đã đưa nền kinh tế
Indonesia thoát khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ