- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi
nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi
tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi
ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đã ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần.
Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền
phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi
không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã
không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ
đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga
vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống
của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi
chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên
giường.
*
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại
một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết
đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti: