xây dựng các hầm ngầm, mỗi hầm ngầm thường chứa được chín người lính
và một thường dân canh phòng ngày đêm chờ Việt Minh đến tiến công sẽ
tiêu diệt bằng liên thanh đã bố trí đầu các khe bắn hoặc lỗ châu mai. Các
chiến sĩ Việt Minh vận động quanh các boong-ke ấy như nước đập vào đá.
Ngày nay người ta vẫn còn thấy các boong-ke đó sừng sững, trống trơ như
nhắc nhở một cách thống thiết về những hy vọng hão huyền của người Pháp.
De Lattre huy động dân thường phải đi canh gác đỡ cho người lính
chiến phải thường xuyên ở các doanh trại. Ông bác bỏ việc di tản phụ nữ và
trẻ em thường dân Pháp theo lệnh cũ của Carpentier trước đây, cho về không
tàu biển viễn dương Le Pasteur từ Pháp sang để đón thường dân di tản đi về
Pháp. De Lattre nói: “Chừng nào phụ nữ, trẻ em còn có mặt ở đây, đàn ông
không dám bỏ rơi họ để lọt vào tay đối phương”.
Sung sướng trước thắng lợi, nóng lòng muốn giao chiến, Võ Nguyên
Giáp muốn nhân đà này giành thắng lợi mới trên dọc đường số 4. Ông lao
vào hoàn chỉnh kế hoạch một loạt các cuộc tiến công nở như pháo hoa với
hy vọng kiểm soát được đồng bằng sông Hồng. Trong các trận đánh đó, ông
vượt quá giới hạn và đã gặp nhiều trở ngại. Những hành động ấy bộc lộ một
trong những thiếu sót chủ yếu của ông. Đó là muốn “ăn nhanh”, tin rằng chỉ
ý chí không gì lay chuyển nổi của bộ đội là có thể thắng được lực lượng đối
phương đông hơn và mạnh hơn. Tuy nhiên, từ giữa những năm 1950, Hoa
Kỳ đã cung cấp cho Pháp một số lượng lớn vũ khí của một cường quốc hỏa
lực. Võ Nguyên Giáp biết điều đó nhưng ông không nản. Ông làm lần này
và lại tiếp tục làm lần nữa trong những giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến
tranh chống Pháp cũng như chống Mỹ sau này trong các năm 1951, 1962,
1965, 1968 và 1972. Núi rừng còn cho ông cựu giáo viên sử học nhiều bài
học quý giá.