Vào tới kho đồng đen, ông Khổng Lồ hốt đồng bỏ vào bị. Bỏ vào rất nhiều mà
không đầy vì bị của ông có phép. Chừng đầy bị thì kho của vua Tàu đã lưng hơn phân
nửa. Quan giữ kho hoảng sợ biết ông Khổng Lồ ra kẻ dị thường, bèn cấp báo cho vua
hay. Lập tức, vua Tàu sai quân sĩ tới vây. Vì số đồng đen mang nhiều quá, ông Khổng
Lồ không thể nào hóa phép thành con chim để bay được. Ông phải chạy rất nặng nhọc,
vất vả. Quân Tàu cưỡi ngựa đuổi theo gần kịp. Nguy hiểm làm sao, chạy tới sông Hồng
Hà, ông Khổng Lồ lập tức lấy cái nón thả xuống nước, đứng trên nón. Chiếc nón ấy hóa
ra chiếc thuyền chở ông và bị đồng đen nọ đến bên kia sông. Quân Tàu hoảng sợ, không
dám đuổi theo.
Thành Hà Nội thuở ấy gọi là Bắc Thành. Về tới đó, ông Khổng Lồ nhờ mấy người
thợ rèn thụt ống bễ lên để rèn một cái chuông thật lớn. Ông căn dặn: “Rèn thế nào cho
chuông này giống hình cái bông sen nở, khi đánh thì kêu rền lên khắp nơi, khắp chốn ai
cũng nghe”.
Vì họ là thợ rèn không chuyên đúc đồng nên cái chuông không được như ý muốn,
rốt cuộc ông Khổng Lồ dùng đất sét nắn kiểu khuôn trước, rồi đổ đồng vào sau. Nhờ
vậy, cái chuông đã hoàn thành.
Ông Khổng Lồ bèn chuẩn bị cuộc lễ tạ ơn Phật Trời. Đúng ngày, ông đánh chuông.
Mấy tiếng đầu vang rền ngân nga khắp Đông, Tây, Nam, Bắc ai nấy đều hay biết... Đến
mức con trâu bằng vàng đứng giữ kho bên Tàu cũng giật mình. Ngỡ rằng trâu mẹ gọi
mình, tượng trâu vàng nọ chạy một mạch từ kinh đô nước Tàu qua tới kinh đô nước Việt
thời ấy.
Ông Khổng Lồ vừa mừng, vừa sợ hãi. Mừng vì thấy của cải mà người Tàu vơ vét
của dân Việt bây giờ trở về nước Việt. Sợ vì vua Tàu cử đại binh qua xâm chiếm nước
nhà phen nữa. Bởi vậy, ông liệng cái chuông nọ xuống Hồ Tây. Con trâu vàng cũng nhảy
xuống nước theo mẹ.
Đời sau, ông Khổng Lồ được tôn thờ là Thần đúc chuông.