nghiệm về chiến tranh cách mạng. Những cán bộ nằm lại miền Nam sau
năm 1954 cũng giàu kinh nghiệm như vậy và giờ đây họ được chỉ thị tái
tiến hành hoạt động quân sự.
Vào tháng 12-1960, những kinh nghiệm này đã mang lại kết quả và Hà Nội
quyết định đã đến lúc chính thức thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam.
Mục đích của Mặt trận, hay theo cách gọi của Mỹ: Việt Cộng, là tiến hành
cuộc tổng nổi dậy vũ trang ở Nam Việt Nam. Mặc dầu do Hà Nội kiểm soát,
Mặt trận giải phóng miền Nam tuyên bố đấu tranh vì độc lập dân tộc chứ
không phải đấu tranh giai cấp. Điều này đã mở rộng cơ sở chính trị và dễ
dàng tuyên truyền trên trường quốc tế. Đấu tranh giai cấp cần phải chờ sau
khi đã có cuộc cách mạng. Mặt trận đơn giản chỉ là một phiên bản mới của
tổ chức Việt Minh do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 để huy động tinh
thần chống Pháp và Nhật vào phong trào đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên
Mặt trận có hai lợi thế cực kỳ quan trọng: (1) Mặt trận có thể rút kinh
nghiệm và bài học mà Hà Nội tích luỹ được từ chiến thắng của Việt Minh
đối với Pháp năm 1954 và (2) được miền Bắc cung cấp phương tiện và cả
quân đội.
Vào những năm 1960, nhiều yếu tố hư cấu được phủ lên Việt Cộng, kể cả từ
hai phía phản đối và ủng hộ họ. Một bên, trong đó có Washington, mô tả
Việt Cộng là một tổ chức khủng bố mà thành công chỉ dựa trên sự cưỡng
bức. Ví dụ, tháng 12-1961, sách trắng của chính quyền Kenedy về tình hình
Việt Nam cho rằng phong trào (Việt Cộng) "dựa vào mọi biện pháp để gây
rối loạn và mất trật tự... mọi chiến thuật, kể cả khủng bố, hoạt động vũ trang
hoặc thuyết phục đều được sử dụng"(
). Phía bên kia, phong trào phản
chiến tại Hoa Kỳ, lãng mạn hoá hình ảnh Việt Cộng như là du kích chân đất
và họ thành công vì, theo như Fitzgerald, "những người nông dân Việt Nam
thấy họ tốt hơn"(
).
Mỗi quan điểm đều có phần sư thật. Việt Cộng không cần mất nhiều thời
gian để tuyển lựa nông dân, điều đó phản ánh thái độ tôn trọng đối với họ.