Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của đường mòn Hồ Chí Minh.
Quyết định năm 1959 xây dựng con đường này có tầm chiến lược to lớn.
Tương tự, bước đi dũng cảm của Hà Nội năm 1963 mở rộng con đường,
đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam cũng có tầm ý nghĩa như vậy. Con
đường đầu tiên chỉ là mạng lưới các lối mòn, đường nhỏ xuyên qua dốc núi
dựng đứng và rừng rậm, đóng vai trò làm mạng lưới tiếp tế hậu cần. Từ nơi
trú quân này, quân đội miền Bắc có thể xâm nhập vào miền Nam một cách
dễ dàng để tấn công các mục tiêu sau đó trở về Lào một cách an toàn. Sau
chiến tranh, Hà Nội gọi con đường là "một câu chuyện thần kỳ của thế kỷ"
(
Lào là một vấn đề chính trị nóng bỏng trong những ngày đầu của chính
quyền Kenedy. Hiệp định Giơnevơ năm 1962, mà Hoa Kỳ đóng vai trò
trung tâm, tuyên bố Lào trung lập. Mọi quân đội nước ngoài phải rút ra khỏi
Lào, kể cả các đơnvị quân đội Việt Nam. Washington muốn tin vào khả
năng trung lập đó, nhưng hoạt động của Hà Nội ở Lào tiếp tục được mở
rộng. Ở Sài Gòn, tướng Harkin, tư lệnh MACV, giảm nhẹ sự có mặt của
Bắc Việt Nam là "sự đồn đoán".
Trong khi Harkin cho rằng không có chứng cứ đáng tin nào về việc mở
rộng sử dụng con đường để vũ trang cho Việt Cộng và đưa quân đội chủ lực
miền Bắc vào Nam, các lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ hoạt động dọc theo
biên giới Lào không gặp mấy khó khăn để khẳng định điều đó. Từ 1961,
nhân viên lực lượng đặc biệt đã hỗ trợ nhiều đề án của CIA được triển khai
theo chỉ thị của tổng thống Kenedy, bao gồm: toán thu thập tình báo, biệt
đội sơn cước và thám báo biên giới, và biệt đội không vận dân sự. Các đề
án này triển khai các toán nhỏ để trinh sát hoặc tập kích các toán quân đối
phương vượt qua biên giới hoặc thu thập tình báo ở Lào(
Bill Colby bắt đầu các hoạt động trên vào mùa hè 1961. Địa bàn hoạt động,
theo một tài liệu được giải mật, "là từ Attopeu phía bắc Tchepone vào
đường 9 phía bên kia của vùng I và II", một dải đất dài hơn 50 dặm.