nội bộ và tình báo do điệp viên cài cắm của Hà Nội cung cấp. "Đó là một
phụ nữ, một trong những người lao công", sau vụ tấn công, người phụ nữ
đó biến mất. Nhân viên lao công là người có thể quan sát mọi thứ bên trong
FOB4. Người phụ nữ này đi lại trong căn cứ và ghi nhớ các lớp bảo vệ. Các
chiến sĩ đặc công biết rõ mình phải làm gì(
Ví dụ này chỉ ra tình trạng mất an ninh nghiêm trọng mà SOG không giải
quyết được và bị đối phương lợi dụng. SOG biết người miền Bắc sẽ cài cắm
điệp viên vào đối tác- Tổng nha kỹ thuật chiến lược -STD. Để đề phòng khả
năng đó, lãnh đạo của SOG đã gạt STD ra khỏi quá trình vạch kế hoạch
hành động và không cho tiếp cận với thông tin nhậy cảm. Mọi cựu nhân
viên của SOG khi được phỏng vấn đều cho là STD đã bị đối phương xâm
nhập. Khi được hỏi đối tác STD có được tham gia vạch kế hoạch hoạt động
của FOB4 không, Overby khẳng định "không, họ không được tham gia vào
đó". Overby tin là miền Bắc đã cài "một số điệp viên vào STD"(
1
).
Vì SOG giữ khoảng cách với STD, Bắc Việt Nam tìm cách xâm nhập khác.
Đó là số nhân viên lao công phù hợp với chiến lược gián điệp của Hà Nội.
SOG cần một số người Việt làm các công việc hỗ trợ tại các căn cứ, sở chỉ
huy, bộ phận phối thuộc. Người Việt Nam nấu cơm, làm vệ sinh, và giặt
giũ, là nhân viên lái xe, thư ký, văn thư. Tuy nhiên Overby chỉ ra là SOG
không "thẩm tra an ninh đối với những người địa phương làm tại các cơ sở
(của "SOG")(
). Công việc này là của đối tác Việt Nam. Đó là con đường
hoàn hảo để xâm nhập vào các cơ sở của SOG mà Hà Nội đã triệt để khai
thác. Có nhiều ví dụ cho thấy như vậy.
Thiếu tá Pat Lang đến công tác tại SOG năm 1972 khi SOG đang chuẩn bị
bàn giao hoạt động cho STD và giải thể. Lang là một nhân viên tình báo.
Một hôm, Lang nhận được một số lượng lớn hồ sơ điều tra phản gián. Năm
1971, nhiều người Việt Nam làm việc tại các cơ sở của SOG bị nghi ngờ.
Khi lần đọc số hồ sơ, những thông tin trong đó làm Lang giật mình. Lang
kể lại nhiều cá nhân bị điều tra rất phù hợp với hình mẫu gián điệp mà cơ