lại không thể vượt qua giới hạn nhất định tại Lào”(
1
). Sau đó Isler được biết
đó là thành quả của vị đại sứ mới rời khỏi Lào, Bill Sullivan.
Các toán của Isler rất khó vượt qua giới hạn đó. Thời gian trên mặt đất
trong mỗi điệp vụ "cứ co ngắn lại... và càng khắc nghiệt hơn". Quân đội
miền Bắc làm cho "việc tung các toán thám báo đi và để họ hoạt động trên
mặt đất khó khăn hơn nhiều. Một số toán trụ lại được nhưng rất vất vả. Họ
dường như ở ngay trên đất của chúng tôi”(
). Khi bắt đầu hoạt động
chống phá đường mòn, Bull Simon vạch kế hoạch cho các toán lưu lại ở
Lào tứ năm đến sáu ngày. Vào năm 1969, các toán của Isler "không ở lại
được quá hai ngày - Rất nhiều lần chỉ có sáu giờ. Vừa tung toán thám báo đi
là phải quay ngay lại để đưa về. Có quá nhiều lực lượng an ninh của miền
Bắc, các toán của chúng tôi luôn gặp phải họ”(
2
). Việc ngừng ném bom
chẳng giúp ích gì. "Mỗi khi chúng ta ngừng ném bom, họ lại huy động
nhiều hơn. Ngừng ném bom chỉ gây hại cho chúng ta”(
2
).
Khi hiệu quả của các biện pháp đối phó tăng lên, khả năng gây thiệt hại của
quân đội miền Bắc cho các toán thám báo cũng tăng theo. Trong năm 1969
"con số thương vong của Mỹ là 50% trên số điệp vụ so với 44% năm 1968,
và 39% năm 1967”(
). Trung bình trong mỗi điệp vụ ở Lào, một thám báo
viên bị chết, bị thương hoặc mất tích. Với 452 điệp vụ được thực hiện, số
thương vong của Mỹ là 19 người chết, 199 bị thương, và 9 mất tích. Các
hoạt động của Prairie Fire do Trung tâm chỉ huy Bắc (CCN) ở Đà Nẵng và
Trung tâm chỉ huy miền Trung (CCC) ở Kontum chịu trách nhiệm. Vào
năm 1969, mỗi trung tâm được biên chế 72 sĩ quan Mỹ và 409 lính nghĩa
vụ(
). Nếu tính đến thực tế là nhân viên Mỹ trong các toán thám báo phần
lớn là sĩ quan điều hành - con số thương vong thật đáng sợ. Có quá nhiều
huân chương "trái tim hồng” tặng cho người bị thương trong một đơn vị
nhỏ như vậy.
Các toán SOG ở Campuchia dễ thở hơn vì sự có mặt của quân đội miền Bắc
không lớn. Trong năm 1969, "tỉ lệ thương vong trên số điệp vụ là 13%",