nhu cầu tình dục với người khác giới thì có lẽ những người đồng
tính ở tận sâu thẳm trong lòng đã thừa nhận nó, hoặc những người
lưỡng tính đã lựa chọn để miêu tả bản thân là người có xu hướng tình
dục với người khác giới. Điều này đem lại tỷ lệ thực tế những cặp
song sinh đồng tính với cấu tạo gen di truyền giống hệt lên tới từ
60% - 70%, hoặc là 2/3, chứng tỏ một cách thuyết phục rằng đa
phần xu hướng đồng tính được hình thành từ trong bụng mẹ. Điều
này cũng khẳng định rằng việc giáo dục chỉ tác động chút ít, nếu có,
tới định hướng tình dục của chúng ta.
Điều đó xuất phát từ gen di truyền
Dựa trên lý thuyết cho rằng tình trạng tình dục đồng giới được
hình thành từ trong bụng mẹ, bạn sẽ cho rằng tất cả các cặp song
sinh đồng tính giống hệt nhau sẽ cũng là đồng tính, vậy thì tại sao
đây không phải là trường hợp với từ 30% tới 40% cặp anh em song
sinh đồng tính khác? Gen có một thuộc tính được gọi là “độ thâm
nhập” dùng để tính độ trội/lặn của gen khiến chúng trở nên hiệu
quả, và quyết định cách gen đó bộc lộ như thế nào và trở thành một
gen trội. Ví dụ như, sự đa dạng của gen là nguyên nhân của bệnh
Huntington là thâm nhập 100%, ngược lại gen gây ra bệnh tiểu đường
tuýp một chỉ thâm nhập 30%. Điều này có nghĩa là nếu trong một
cặp song sinh giống hệt mỗi người đều có gen của chứng
Huntington và tiểu đường thì cả hai đều có tới 100% khả năng phát
triển bệnh Huntington nhưng chỉ có 30% khả năng bị bệnh tiểu
đường.
Những người mang “gen đồng tính” theo như cách gọi ngày nay,
có từ 50% tới 70% khả năng trở thành người đồng tính và lý thuyết
này lý giải tại sao tất cả các cặp anh em trai song sinh giống hệt
không phải đều là đồng tính. Người ta cũng ước tính có khoảng 10%
nam giới mang “gen đồng tính” và khoảng một nửa số này sẽ trở
thành đồng tính bởi vì yếu tố thâm nhập từ 50% - 70% của gen.