luôn. Lại theo chưởng cơ Hoàng Tiến Cảnh ở đảo Giang Khảm đóng 10
chiếc thuyền hiệu.
Năm Đinh Mùi, về Gia Định theo quânnh giặc, hằng lập chiến công. Năm
Nhâm Tý đi đánh Quy Nhơn, khi trở về đổi coi chi Chấn vũ, đến Bình Hoà,
Phú Yên chiêu tập quân Man được 300 người chia giữ các chỗ yếu hại ở
thượng đạo để ngăn chặn giặc. Gia Long năm thứ 2, thăng Khâm sai
chưởng cơ chánh trưởng chi chi Tuy vũ.
Năm thứ 14, lĩnh Trấn thủ ở Bình Hoà, Minh Mạng năm thứ 3, vì tuổi già
xin về hưu, cho chi bổng lệ theo sang Vọng Các.
Năm thứ 6, vào chầu được thưởng 100 quan tiền, rồi chết, tuổi 70, cấp cho
phu coi mộ; con là Sĩ được tập ấm n kỵ uý, có 2 em là Vĩnh và Vỵ, cũng có
công theo sang Vọng Các. Vĩnh làm quan đến khâm sai chưởng cơ, vì ốm
phải bỏ chức quan, Gia Long năm thứ 7, vua thưởng có công, lại sai coi
nguyên Thạch Thành, lấy lộc nuôi thân trọn đời. Vỵ làm quan Cai cơ chi
Chấn vũ, đổi coi chi Tuy vũ, cũng vì ốm xin hưu rồi chết, Vĩnh không có
con, con Vỵ là Thịnh được tập ấm Thừa ân uý.
Lại: Nguyễn Văn Nguyện, Nguyễn Văn Tuy người cùng huyện, cũng có
công theo sang Vọng Các, đều làm quan đến cai cơ thượng đạo.
Năm Giáp Dần, theo đánh Quy Nhơn, Tuy bị ốm chết ở trong quân,
Nguyện về đóng giữ Thạch Thành. Năm Ất Mão, đại binh đến cứu viện
thành Diên Khánh, Nguyện cùng Vạn giữ Thạch Thành rồi chết. Nguyễn
Văn Đăng, người huyện Tuy Hoà, cũng có công lao theo sang Vọng Các,
làm quan đến Phó uý ban trực rồi chết; Tuy và Nguyện, Đăng đều tặng
Chưởng cơ, được thờ ở đền Hiển trung, định công theo sang Vọng Các,
Nguyện, Tuy ở bậc thứ 4, Đăng ở bậc thứ 3, cấp cho phu coi mộ.
Năm thứ 9, được thờ vào miếu Trung hưng công thần, cho tập ấm theo như
lệ.