Mao, Đa Lộc nói: người Hồng Mao dữ tợn, không bằng nước Bút-tu-kê,
bèn viết thư sai người mang đến thành Cô-a (thuộc Bút-tu-kê) cầu viện,
nước Tu-kê hẹn đem quân sang giúp, bọn Nhân đợi chờ mấy tháng không
thấy tin tức, nước Hồng Mao cũng sai người tới thành Phong-ty-thê-đờ nói
với Trấn mục rằng: người ta cần cấp cầu giúp, việc gì còn trù trừ, nếu hoặc
không thể giúp được, tôi giúp, tôi xin tự đảm đương, không nên để cho
nước ấy phải phí thì giờ".
Năm Bính Ngọ, đầu mục nước Tiểu Tây mới đem 2 chiếc chiến thuyền, 1
đưa Hoàng trưởng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Đại Tây, 1 chiếc đưa Học
cùng bọn Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm về Vọng Các, thuyền Học về
tới đảo Thổ Châu, bọn Nhân ở lại hầu vua, Học lại theo chiếc thuyền nước
Tây đi. Mùa thu năm ấy nước Bút-tu-kê sai tướng nước ấy là An Tôn Lỗi
mang quốc thư và lễ vật đến dâng ở hành tại, lại đem 100 tấm vải nước Tây
và 20 khẩu súng điểu sang đưa cho vua Xiêm, rồi mời vua sang nước ấy và
nói đã sẵn sàng 56 chiếc chiến thuyền đỗ ở thành Cô Á đợi để sang giúp,
người Xiêm ghét lắm, ý rất không bằng lòng, vua bèn dụ An Tôn Lỗi rồi
cho về, lại sai bọn Hộ bộ Trần Phúc Đại đáp thuyền nước Mã Cao sang
thành Cô Á đáp lễ và hỏi thăm. Sau rồi thuyền của Học về đến đảo Thổ
Châu, vua lại sai Học đi đem việc ấy bảo cho Bá Đa Lộc và trấn mục Tiểu
Tây.
Năm Đinh Mùi, Học đã đến Tiểu Tây, lại đáp tàu nước Tây mang tờ biểu về
tâu, về đến Ma Lặc gặp thuyền binh ở nước Đại Tây cùng nhau điều về,
đến đảo Côn Lôn đem việc ấy tâu lên, vua bèn sai Trương Phúc Luật đến
tiếp, bỗng Học đi thuyền nước Tây gặp gió dạt sang Lã Tống, hơn 1 năm
mới về đến Gia Định; từ đó Học ở lại theo hầu, đem thông ngôn nước Tây
cùng với Ô Ly Vi (người Tây) phiên dịch tiếng chữ Tây, và chế tạo các
hạng hỏa xa, chấn địa lôi, binh khí.
Năm Canh Tuất, đắp thành Gia Định, Học nêu đo phận đất và các ngả
đường, rồi cùng với người Tây là bọn Nguyễn Chấn trông coi chiếc thuyền