bị giặc bắn bị thương ở chân, bọc vết thương cố sức đánh, mọi người phục
là khỏe.
Năm Ất Mão theo đi giải vây ở Diên Khánh, đóng đồn ở núi Giang Nam,
ngăn đường chạy của giặc. Năm Bính Thìn thăng Thuộc nội cai đội vệ Túc
trực. Năm Đinh Tỵ theo đi đi thuyền lê theo bọn Nguyễn Văn Khiêm, đêm
vào cửa biển Đà Nẵng đốt phá thuyền giặc. Năm Kỷ Mùi theo đi đánh Quy
Nhơn được thắng trận đại binh theo đường bộ về. Năm Canh Thân giặc vây
thành Bình Định theo đại binh đi cứu viện. Năm Tân Dậu theo Nguyễn Văn
Trương đêm vào cửa biển Thi Nại đánh đốt thủy trại của giặc, lại theo đài
binh tiến đánh Thuận Hóa, lấy lại được đô thành, vì có nhiều chiến công,
thăng Vệ úy vệ Cung vũ đem binh thuyền đến Bình Định đánh giặc. Năm
Nhâm Tuất, Gia Long năm thứ 1 được triệu về; Năm thứ 2, thăng Vệ úy vệ
Tiền nhất quân Thị trung khâm sai thuộc nội cai cơ. Mùa thu năm ấy theo
vua ra Bắc Thành, năm sau đắp hoàng thành Kinh thành, dựng cung điện,
làm nhà quân, đều đem quân theo làm việc. Năm thứ 7, cùng với Hữu tham
tri bộ Công là Nguyễn Đức Huyên sung chức duyệt tuyển ở Bình Hòa, về
sau mỗi khi gặp kỳ duyệt tuyển, thường cùng với quan văn sung làm. Năm
thứ 8, thăng Khâm sai thuộc nội vệ úy vệ Tiền nhất quân Thị trung. Năm
thứ 13, được sung làm phó sứ ở Sơn Lăng.
Mùa thu năm ấy, theo chức cũ làm Lưu thủ trực thuộc doanh Quảng Nam.
Minh Mạng năm thứ 1 triệu về Kinh, theo chức cũ, trông coi việc ở vũ khố.
Năm thứ 5, thăng Thống chế doanh Tiền phong quân Thị nội. Năm thứ 6,
kiêm quản ba đội Tả vệ, Hữu vệ và Hoàng kiếm, bỗng thăng Phó đô thống
chế doanh Hậu quân Thần sách, vẫn kiêm quản kho vũ khố như cũ. Năm
thứ 7, sung làm giám thị trường thi Hội. Năm thứ 8, gia hàm Đô thống
kiêm quản cả Tào chính.
Mùa đông năm thứ 9, ốm chết, 69 tuổi, truy tặng Đô thống, lại gia thưởng
200 lạng bạc, 5 cây gấm tàu, có 6 người con trai là Tự, Phú, Xuân, Thu,