về đều giữ giới cõi. Rồi sau Chất Tri lui quân, cũng không thư đáp lại.
Trương Minh Giảng nhân thể kéo quân về Trấn Tây sửa đắp đồn luỹ để tự
vệ.
Năm Thiệu Tri thứ 1 (1841), tháng giêng, đầu mục của giặc là bọn nghịch
Cổ, nghịch Đật đóng dồn tụ họp ở cầu Nhâm Lạch, Kinh lược là Phạm Văn
Điển chia đường tiến đánh; đến đầu cầu, bọn giặc hơn 1 nghìn tên xông ra
khiêu chiến. Điển cứ đốc suất lính và voi qua cầu, đến thẳng luỹ giặc, giặc
ngăn chặn ngang đường đi, dựa chỗ hiểm bắn ra, quân của Điển đánh
không lợi, bèn dẫn quân về. Lại có toán thổ phỉ họp ba vạn người, vây
nhiễu thành hạt, Tổng đốc Long Tường là Bùi Công Huyên cùng Bang biện
là Doãn Uẩn, Hiệp tán là Cao Hữu Dực chia đường đánh rất dữ, giặc phải
lùi. Huân bèn di quân tiến đánh bọn còn lại ở Mỹ Lâm, quản cơ 2 cơ An
Nam Nhất, Nhị là Hu Khiêm, Tôn Ly đều đến quân thứ xin ra sức làm việc.
Hu Khiêm làm hướng đạo tiến đánh, gặp thổ phỉ hơn 1 nghìn tên đánh phá
được. Chốc lại có thổ phỉ 8 nghìn người xông đến, Phó quản cơ là Nguyễn
Viết Đi đánh nhau bị chết. Thự Lãnh binh ở Vĩnh Long là Lê Khoan Mãnh
đến tiếp viện, thổ phỉ mới lùi; rồi Tôn Ly cũng trốn đi. Huyên bèn lui về
Trấn Tây.
Tháng 3, Chất Tri lại đến, mang theo tên Dun tiến đến Hải Tây, thiết lập
đồn trại, mưu lập Dun làm Man trưởng; lại ngầm chia bè lũ ở các xứ Hải
Đông, Hải Tây, Sà Năng, Sơn Tĩnh dỗ dành thể dân sinh sự; lại tụ họp dân
Man chia ra quấy nhiễu các đạo Vĩnh Tế, Tiền Giang, Hậu Giang. Thổ Mục
là bọn Trần Lâm nổi loạn ở Ba Xuyên, đánh cướp Vĩnh Tế. Bọn Dương
Văn Phong, Nguyễn Duy Tráng cùng đánh nhau không lợi, thế giặc ngày
càng hung hăng. Bọn Trương Minh Giảng ở Trấn Tây thường uỷ cho Bùi
Công Huyên đem quân trở về viện trợ để dẹp. Lại phụng mệnh chọn phái
Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lương Nhàn, tiến đến hội đánh. Bọn Tri
Phương tiến đến Ba Xuyên đánh phá Sóc Trăng, đốt rất nhiều, rồi chia quân
làm 3 đạo, hướng về phía trước đánh giáp lại, chợt nghe thấy đạo Hậu quân