thuyền buôn nước Thanh đến có vật gì mới lạ liền bỏ tiền ra mua. Nếu có ai
cùng thích thì đem vật ấy tặng cho, không tiếc, cho nên nghèo, phương
dưỡng thanh đạm yên tâm mà thôi. Gió trăng vui lòng, phóng khoáng
không bó buộc. Khách đến, sai vợ mua rượu uống với khách, nói cười
phóng đãng, không biết mình là vương công quí phái. Năm Tự Đức thứ 36,
mùa thu, Phế đế nối ngi công là người thân tín. Khi Phế đế bị truất, sợ vạ
lây, ông đem vợ con đến đồn Thuận An, nương với quí quan Đại Pháp. Đến
khi giao trả về, bị giáng làm Kỳ ngoại hầu đem đi an trí ở tình Bình Định.
Năm Đồng Khánh Ất Dậu, vâng ý chỉ 3 cung chuẩn cho tha về kinh trú
ngụ. Sau khai phục tước Quận công. Năm Thành Thái thứ 8, tấn phong làm
Hải Quốc công. Năm ấy thì chết, thọ 69 tuổi, thụy là Cung Mục. Có 6 con
trai, 3 con gái. Năm Tự Đức thứ 36 các con vì can khoản nên bị giáng làm
Tôn thất, không được làm việc gì. Năm Đồng Khánh Ất Dậu chuẩn cho
khai phục tôn tịch. Con thứ tư là Hồng Dư, năm Đồng Khánh thứ 1, theo xa
giá vua có công, thưởng thăng 2 trật, bổ Tòng lục phẩm, lĩnh chức Tôn
nhân Tư vụ.
Hoàng tử Miên Tĩnh
Con thứ 43 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, em cùng mẹ với Quảng Ninh
Quận vương Miên Bật, sinh năm Minh Mạng thứ 9, chết năm thứ 18 mới
có 10 tuổi. Năm Tự Đức thứ 20, liệt thờ ở đền Triển Thân.
Tây Ninh Quận công Miên Thẩm
Con thứ 44 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, mẹ họ Phan. Ông sinh năm
Minh Mạng thứ 9, năm Tự Đức thứ 3 phong làm Tây Ninh Quận công; chết
năm thứ 17, lúc 37 tuổi, thụy là Đoan Nghị, dựng đền ở xã Dương Xuân
thuộc Hương Thủy. Có 4 con trai, 1 con gái. Con thứ 2 là Hồng Trạch tập
phong làm Kỳ ngoại hầu. Sau có tội, bị đoạt tước. Con thứ 4 là Hồng Mộc;
tập phong là Tá Quốc khanh.
Trấn Tĩnh Quận công Miên Dần
Con thứ 45 của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, em cùng mẹ với hoàng tử thứ
34 Miên Hoàn, sinh năm Minh Mạng thứ 10. Lúc đầu làm hoàng tử vốn
kiêu ngông, thường trái gia pháp, vua nghiêm ngặt trách mắng. Năm thứ
21, phong làm Trấn Tĩh quận công. Đến khi ra mở phù, chuyên việc chơi