ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 23

Tên chữ là Lê Phủ, người huyện An Phong, Bắc Ninh. Thuở nhỏ có cao
tiết. Năm Minh Mạng thứ 7, đỗ tiến sĩ, nhiều lần từ chối không ra làm
quan, chỉ lấy sơn thủy, văn chương sách vở làm vui, không mộ đến vinh lợi.
Học trò đến theo học nhiều. Năm Nghị chết, mới 56 tuổi.

Con là Văn Giảng, cũng có tiếng văn chương. Năm Tự Đức thứ 17, Giả

ng đỗ hương tiến, thăng mãi đến Thị giảng, sung làm Đồn điền phó sứ.

Ngô Bỉnh Đức

Tên tự là Tuyết Giả, lúc trước tên là Lệnh Đức, người huyện Đông Ngàn,
Bắc Ninh. Thuở nhỏ, cố sức học.

Minh Mạng năm thứ 6, đỗ hương tiến, .ở quê đọc sách hơn 10 năm, mới ra
làm quan. Lúc đầu bổ Tri huyện An Bác; khi đủ lệ, xét công, được vào làm
Giám sát ngự sử, thường thường nói việc, cùng với Lê Di ở Quảng Bình,
đều c

ó tiếng là can ngăn nói thẳng. Sau được nhắc lên Án sát sứ Hải Dương, rồi
thăng bổ chính sứ Nghệ An. Lại được triệu về bổ Thị lang bộ Hình.

Tự Đức năm thứ 5, được bổ Bố chính sứ Nam Định.

Bỉnh Đức, tính cương nghị, ở quan siêng năng, cẩn thận, đi đến đâu, cũng
có tiếng là chính tiết giỏi. Vua khen thưởng, đặc ân ban cho kim khánh để
nêu tên.

Năm thứ 8, thăng lên Tả tham tri Bộ Hộ, rồi cáo bệnh về quê, chết ở nhà.

Lê Danh Đề

Tên tự là Thạc Phủ, người huyện Lôi Dương, Thanh Hóa. Năm Minh Mạng
thứ 6, đỗ hương tiến, bổ Tri huyện Nam Sang; sau trải làm Lang trung bộ
Lại, Án sát sứ Hải Dương.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.