Bố chính là Phạm Phúc Thiện bỏ thành chạy trước (Phúc Bảo rồi bị tên thủ
ngự ở đồn An Thái là Hoàng Văn Sương bắt nộp cho giặc, đưa về thành
Phiên An, sau quan quân vây thành bắn pháo vào, Phúc Bảo bị trúng pháo
chết, còn Phạm Phúc Thiện bị dân Long Hồ bức bách phải đầu hàng giặc,
sau lẻn trốn về thú, phải tội giam đợi lệnh chém). Sức Uẩn không thể chống
được cũng chạy, thành bị hãm, giặc đặt đổ đảng là Hoàng Văn Thông
(nguyên chánh đội trưởng suất đội ở phủ Kiến An công ngụy xưng Hữu
quân hữu đồn) làm Trấn phủ, Trần Khắc Doạn (nguyên cai đội An Thuận)
làm phó, Nguyễn Văn Nghi (nguyên Binh tào tư vụ, ngụy xưng Hộ bộ thiếu
khanh) làm Tuyên phủ, Đào Duy Phúc làm phó (ngụy xưng Binh bộ thiêm
sự).
Đại Cương từ khi thua trận ở sông Đôi lui về tỉnh lỵ An Giang (tức đồn
Chu Đốc), quân đều tan nát, bèn thương lượng ủy cho Bố chính Nguyễn
Văn Bỉnh, Án sát Bùi Văn Lý ở lại phòng hộ, mà tự mình sang Nam Vang
đòi triệu lính Phiên tới cứu viện. Chưa kịp binh thuyền của giặc đã thừa
thắng tiếp đến, quan quân phòng hộ yếu ớt, thoáng thấy đã sợ hãi vỡ chạy.
Đại Cương chạy sang Thế Lăng (tên đất của nước Chân Lạp), tỉnh thành bị
hãm vào tay giặc, Bỉnh bị bắt (sau nhân sơ hở trốn về thú, phải cách chức ra
sức chuộc tội) Lý tự gieo mình xuống sông, thủ hạ nhảy theo cứu được
thoát. Giặc thẳng tới Hà Tiên, thự phủ là Phạm Xuân Bích, án sát là Trần
Văn Quản đã bị đội Hồi lương, Biên lương thuộc tỉnh hại trước rồi. Giặc
bèn đặt nguyên trấn thủ hưu trí là Mạc Công Du làm Trấn phủ, mà đảng
phái là Trần Hiệu Trung làm Tuyên phủ, em Du là Công Tài và con là Hầu
Diệu đều làm thống lĩnh sứ cùng hơn 10 vạn người về đội Hồi lương, Bắc
thuẩn chiếm cứ giữ đó (khi trước Khôi làm phản, con Du là Hầu Hy theo
giặc, Phạm Xuân Bích mật đòi Du cùng Công Tài trói giam).
Bấy giờ việc quân báo ở các tỉnh đến luôn, vua lại cho Trung quân đô thống
Phủ chưởng phủ sự là Tống Phúc Lương làm Thảo nghịch tả tướng quân và
Thần sách hậu dinh thống chế là Nguyễn Xuân làm Tham tán đại thần, Lễ
bộ hữu thị lang là Trương Phúc Đĩnh làm Tán tương quân vụ, Tiền quân đô