để phá. Việc không thành, hai anh em đều chết ở bên Minh.
Bấy giờ, bọn Thanh Hoa hữu vệ điện tiền tướng quân An Thanh hầu
Nguyễn Kim (người Bái Trang, huyện Tống Sơn
2369
, có thuyết nói là con
của Hoằng Dụ) dẫn con em chạy sang Ai Lao. Chúa nước ấy là Sạ Đẩu cho
rằng ta là nước có quan hệ môi răng với họ, mới đem nhân dân và đất đai
Sầm Châu cấp cho Kim. Từ đó, Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp
những kẻ chạy trốn, làm phản, ngầm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu
khôi phục.
Họ Mạc mở khoa thi Hội. Cho bọn Đỗ Tống (người xã Lại Ốc, huyện Văn
Giang), Nguyễn Hãng, Nguyễn Văn Huy 3 người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn
Nguyễn Văn Quang 8 người đỗ tiến sĩ xuất thân; [74a] bọn Nguyễn Hữu
Hoán 16 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Mùa đông, tháng 12, khi ấy, Mạc Đăng Dung cướp ngôi đã được 3 năm, tự
thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng
là Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú
ngao du tự lạc.
Mạc Đăng Doanh
(Con trưởng Đăng Dung, tiếm ngôi 11 năm, sau tiếm truy xưng tôn hiệu là
Thái Tông)
Canh Dần, [1530] (Mạc Đại Chính năm thứ 1; Minh Gia Tĩnh năm thứ 9).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, đại xá,
đổi niên hiệu Đại Chính.
Bấy giờ, Lê Ý, người Thanh Hoa, là cháu ngoại họ Lê, căm giận họ Mạc
cướp ngôi, mới nổi quân ở Da Châu
2370
, lại xưng niên hiệu Quang Thiệu,
nhiều người theo về, trong khoảng mươi hôm, một tháng, nhiều quận huyện
hưởng ứng, số quân có đến vài vạn người. Bèn cùng với bọn bộ tướng
[74b] Lê Như Bích, Lê Bá Tạo, Hà Công Liêu, Lê Tông Xá, Nguyễn Cảo
dàn bày doanh trận, chi đặt cơ đội, bộ ngũ, nổi súng lệnh, kéo cờ hiệu, đóng
quân ở sông Mã. Từ đấy, các hào kiệt xa gần đều cho là họ Lê sẽ phục
hưng, cùng nhau phấn khởi theo về, không đến vài năm mà quân thanh rất
lừng lẫy.