trở lên (nếu theo quan dinh thì không câu nệ) để tang 1 năm. Võ giai từ lục
phẩm trở xuống, văn giai từ bát cửu phẩm có dự triều yết để tang 9 tháng.
Các hộ sĩ, vệ sĩ, hiệu sĩ án lại, hoa văn để tang 5 tháng. Vợ các quan viên
dự hàng mệnh phụ để tang 1 năm, không dự hàng mệnh phụ để tang 100
ngày, đều cấm trang sức. Các ấm quan, tụng quan, được cất nhắc mà chưa
có chỗ bổ và các quan tạp lưu để tang 5 tháng. Xá nhân, văn thuộc, quan
viên tử tôn, tướng thần, xã trưởng, cùng thổ tù, phụ đạo và người làng vua,
dân trong Kinh kỳ đều để tang 100 ngày. Dân chúng các xứ trong nước để
tang 27 ngày. Cấm hết âm nhạc và mặc dùng các thứ lụa màu, châu ngọc,
vàng bạc. Con trai con gái lấy vợ lấy chồng thì con cái nhà quan viên hoãn
100 ngày, thứ dân 27 ngày; đều bắt đầu từ ngày nhận được lệnh này.
[76b] Hôm ấy, giờ Sửu, sao băng rất nhiều, dài như tấm lụa, khi sa xuống
đất, có tiếng kêu như sấm lớn.
Tháng 9, ngày 20, sai tướng sĩ rước linh cữu của Đại Hành Hoàng Đế về
sơn lăng.
Chú thích:
2648Mỹ Thọ : tức Mỹ Thọ hầu, tên tước.
2649Huyện Đông Lan và Huyện Tây Lan : thuộc phủ Đoan Hùng, trấn Sơn
Tây bấy giờ.
2650Đường Kiều : đường là cây cam đường. Thiệu Bá con Chu Văn
Vương, khi tuần hành các nước phương Nam thường ngồi nghỉ dưới gốc
cây cam đường, đời sau gọi quan to, tước cao là "đường phong". Kiều là
cây to, bóng cả, cũng ví người làm quan to.
2651Hoàn quyển : hoàn là ngọc hoàn khuê của tước công cầm khi vào chầu
vua; quyển là loại áo cổn. Hoàng quyển ví quan cao tước trọng.
2652Tây Bình : tức Tây Bình Vương, tước của Lý Thạnh đời Đường. Lý
Thạnh giúp Đường Đức Tong dẹp loạn Chu Thứ. Con Thạch là Lý Tổ dẹp
đất Hoài Tây, bắt Ngô Nguyên Tế.
2653Phần Dương : tức Phần Dương quận vương, tước hiệu của Quách Tử
Nghi. Tử Nghi dẹp loạn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh, xây dựng lại quốc gia
cho Đường Huyền Tông.
2654Huyện Hữu Lũng : nay thuộc tỉnh Hà Bắc.